Phố Wall đi xuống dù FED hạ lãi suất thấp kỷ lục

Thursday, October 30, 2008 |

Dù Cục Dự trữ Liên bang (FED) sau cuộc họp hôm 29/10, đã hạ lãi suất đúng như dự báo của giới phân tích xuống thấp kỷ lục. Tuy vậy, phố Wall vẫn đi xuống do nhận định bi quan của FED về triển vọng kinh tế Mỹ.

Chỉ số Công nghiệp Dow Jones mất 0,82%, đóng cửa tại 8.990,96 điểm. Chỉ số Nasdaq lại tăng nhẹ 0,47%, chốt ở mức 1.657,21 điểm. Chỉ số Standard & Poor 500 (S&P 500) thấp hơn phiên trước 1,11%, kết thúc ngày giao dịch tại 930,09 điểm.

Sau cuộc họp, FED đã cắt giảm lãi suất thêm 0,5% xuống còn 1%. Đây cũng là mức thấp nhất từng được ghi nhận. Trước đó, ngưỡng lãi suất 1% cũng từng được áp dụng vào năm 2004. Từ cuối năm 2007 đến nay, FED đã có nhiều bước đi cần thiết để ổn định thị trường tài chính như cắt giảm lãi suất hay cung cấp gói hỗ trợ 700 tỷ đôla để mua nợ xấu ngân hàng.

Các chỉ số chính của chứng khoán Mỹ diễn biến theo xu hướng trái ngược nhau trong phiên hôm qua 29/10. Ảnh: blog.kir.com.
Các chỉ số chính của chứng khoán Mỹ diễn biến theo xu hướng trái ngược nhau trong phiên hôm qua 29/10. Ảnh: blog.kir.com.

Tuy nhiên, theo ông Joshua Shapiro, Nhà Kinh tế Trưởng tại Maria Fiorini Ramirez Inc, sau nhiều lần điều chỉnh, việc cắt giảm lãi suất đã không còn tác động lớn như trước. Ông dự đoán lãi suất sẽ được duy trì trong thời gian tới.

Cùng ngày, trong phát biểu của mình, FED tập trung nhận định về những mặt tiêu cực của nền kinh tế như ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính, thiếu hụt tín dụng, và sự đi xuống của tâm lý của người dân trong tiêu dùng và hoạt động kinh doanh. Nhận định này đã có tác động tiêu cực nhất định tới tâm lý của phố Wall.

Thị trường tín dụng tiếp tục có chuyển biến tốt, với lãi suất LIBOR qua đêm giảm 0,1% chỉ còn 1,14%, còn LIBOR 3 tháng xuống 0,05% còn 3,42%.

Doanh số của nhà sản xuất xe hơi General Motor (GM) giảm mạnh trong quý III do nhu cầu thị trường quốc tế chùng xuống. Ngoài ra, doanh số tại Mỹ, sân nhà của GM, cũng rơi 19% so với năm ngoái. Ngược với GM, hai thành phần khác của Dow Jones là Procter & Gamble và Kraft Foods đều đạt chỉ tiêu về doanh thu và lợi nhuận.

Hiện 53% các công ty thuộc S&P 500 đã công bố kết quả, lợi nhuận nhìn chung giảm 23,9% so với cùng kỳ năm 2007. Đôla suy yếu đã giúp dầu hồi lại 4,77 đôla để từ đó leo lên 67,5 đôla một thùng.

Hôm nay, kinh tế Mỹ sẽ đón nhận thông tin về GDP quý III. Theo các cuộc trưng cầu ý kiến của trang web Briefing.com, phần đông đều có quan điểm GDP sẽ đi xuống 0,5%.

Tại châu Á, chứng khoán Nhật phản ứng khá tích cực trước việc FED cắt giảm lãi suất. Bên cạnh đó Ngân hàng Trung ương nước này được dự đoán cũng sẽ hạ lãi suất trong thời gian tới cũng như đồng yên xuống giá so với đôla, mang lợi cho nhóm cổ phiếu xuất khẩu, đã giúp giới đầu tư Nhật trở nên phấn chấn hơn. Chỉ số Nikkei 225 tăng 7,74% sau ngày giao dịch.

Chỉ số Shanghai Composite của Trung Quốc đi xuống 2,94%. Chỉ số Hang Seng của Hong Kong được cộng thêm 0,84%. Chỉ số KOSPI của Hàn Quốc sau hai phiên đi lên đã quay đầu giảm 3,02%.

Chứng khoán châu Âu đi lên khá mạnh nhờ diễn biến tại thị trường Mỹ. Chỉ số FTSE 100 của Anh nhảy vọt 8,05%. Chỉ số CAC 40 của Pháp cộng thêm tới 9,23%. Chỉ số DAX của Đức giảm nhẹ 0,31%.

Tính tới 9h30 sáng 30/10, sắc xanh phủ khắp các thị trường lớn tại châu Á. Chỉ số Nikkei 225 của Nhật tăng 3,88%. Chỉ số Hang Seng của Hong Kong lên 5,67%. Shanghai Composite của Trung Quốc cao hơn phiên trước 1,48%. Chỉ số KOSPI dẫn đầu về tốc độ đi lên với số điểm cộng 8,09%.

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) vừa cắt giảm lãi suất USD thêm 0,5%, đưa lãi suất cơ bản của đồng tiền này từ mức 1,5% về mức 1% vào rạng sáng nay theo giờ Việt Nam.


Quyết định này của Fed đã đưa lãi suất cơ bản USD về mức thấp nhất từ trước tới nay, nhằm nỗ lực vực kinh tế Mỹ dậy khỏi giai đoạn tuột dốc tồi tệ nhất trong vòng nhiều thập kỷ trở lại đây dưới tác động của khủng hoảng tài chính.

Mặc dù vậy, giới đầu tư vẫn hoài nghi rằng việc phối hợp cắt giảm lãi suất của các ngân hành trung ương bao gồm cả Cục dự trữ Liên bang Mỹ nhằm làm giảm những tác động kinh tế của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu sẽ không thể ngăn chặn được đà giảm giá của cổ phiếu trên toàn thế giới.

Do vậy kết thúc phiên vừa qua, chỉ số Standard & Poor’s 500 giảm 10,42 điểm, tức 1,1%, xuống mức 930,09 điểm. Chỉ số công nghiệp Dow Jones giảm 74,16 điểm, tức 0,8%, xuống mức 8.990,96 điểm.

Chỉ có chỉ số Nasdaq dành cho các công ty công nghệ cao tăng 7,47 điểm, tức 0,47%, lên mức 1.657,21 điểm.




Nhận định của Nguyễn Văn Hoà

To mọi người (6h30)
Chào buổi sáng

FED CẮT LÃI SUẤT- PHỐ WALL GIẢM NHẸ DO ĐỘNG THÁI CHỐT LỜI

Sau khi tăng mạnh gần 11% trong phiên giao dịch trước đó , đêm qua Phố Wall đã có 1 phiên giao dịch trầm lắng hơn (quiet trading) trong tâm trạng chờ đợi động thái cắt lãi suất cơ bản của FED. Giới đầu tư nghiêng về hành động chốt lời hơn là mua vào đã khiến thị trường có khuynh hướng đi xuống. Tuy nhiên, thông tin hỗ trợ cho về việc sản phẩm durable goods (xe, máy móc... ) tiêu thụ mạnh trong tháng 9, một số liệu gây kinh ngạc cho Người Mỹ đã hỗ trợ cho Dw đi ngang với biên độ hẹp trong suốt thời gian giao dịch buổi sáng . Sau Khi Fed công bố giảm lãi suất thêm 0.5, Dw đã tăng vọt lên trên 200 điểm và kế sau đó là hàng loạt lênh bán ra để chốt lời đã khiến chỉ số công nghiệp Dw giảm nhẹ trở lại (…shooting higher and then skidding lower in the very last minutes of trading as some investors rushed to cash in profits after the market"s big advance…). Cụ thể, kết thúc phiên giao dịch các chỉ số chứng khoán của Mỹ được ghi nhận ở mức:

- Chỉ số công nghiệp Dw giảm nhẹ 74 điểm tương đương - 0.82 %
- Chỉ số công nghệ cao Nasdaq tăng 7.74 điểm tương đương + 0.47 %
- Chỉ số S&P 500 giảm 10.42 điểm tương đương 11.1 %

Sắc xanh và đỏ nhạt xen lẫn nhau trên phố Wall đã khiến Wall Street có một không khí bình ổn hơn.

Tại thị trường Châu Âu, chỉ số FTSE của Anh và CAC của Pháp đã có bước tăng vọt mạnh và đạt mức tăng lần lượt là 8,05 % và 9, 23 % ; trong khi đó chỉ số DAX của Đức giảm nhẹ 0.31 % bởi vì phiên giao dịch trước đó DAX đã tăng kỹ lục trên 11%.

Thị trường chứng khoán Nhật hôm qua cũng đã có 1 phiên tăng kỷ lục trên 7% sau khi CP Nhật có động thái bơm 110 tỷ USD để cứu thị trường tài chính và đồng YEN yếu đi so với đồng USD sẽ hỗ trợ cho xuất khẩu của Nhật.

Sau khi FED cắt lãi suất đã tạo chất xúc tác cho đồng USD yếu đi là nguyên nhân khiến cho chỉ số US Dollars Index giảm mạnh -1.18 và đạt mức 84.63 . Trong khi đó dầu và vàng đã tăng mạnh trở lại là lần lượt đạt mức 755 USD/ 1 ONCE và 68 USD/ 1 thùng.

Tình hình trong nước:

Tình hình trong Nước cho đến thời điểm này vẫn chưa có một phản ứng tiêu cực nào trước cơn bão tài chính Thế giới. Dư nợ xấu của hệ thống ngân hàng ở con số có thể kiểm soát được và phần lớn tập trung ở các ngân hàng nhỏ có quản trị rủi ro kém.

Về khả năng rút vốn của NĐT nước ngoài, chỉ có những nhà đầu tư ủy thác qua ngân hàng và các quỷ mở là có khả năng rút vốn để bù đắp vào những khó khăn của nước sở tại. Còn các quỷ đóng khi đầu tư vào Việt nam đã có cam kết trước nên khó rút vốn được. Tuy nhiên, một quan chức nhà nước đã khẳng định vốn ra khỏi Việt nam chiếm 1 con số rất nhỏ so với giá trị bán ra của nhà đầu tư nước ngoài trong tháng 10. Ngoài ra, theo quan sát, họ chỉ bán tập trung vào 1 số cố phiếu đặc biệt là các cổ phiếu có báo cáo tài chính kém, chưa có hiện tượng tháo chạy đồng loạt. Họ vẫn ôm cổ phiếu ngân hàng rất chặt; ngoài ra các cổ phiểu quỷ (chỉ báo của VN-Index) được nhà đầu tư nước ngoài đặc biệt quan tâm và có khuynh hướng mua vào hơn bán ra.

STB tiếp tục mang lại nguồn cảm hứng cho phiên giao dịch hôm nay.

Chúc mọi người có 1 phiên giao dịch thành công.

NVHOA


Nhận định của BST

Nhận định thị trường ngày mai 30-10-2008

*Theo PP Quan sát thị trường của BST hôm nay 29-10-2008 chỉ số T = 6 điểm, tăng hơn hôm qua đến 2 điểm và nằm trong vùng đầu tư mạo hiểm. Test dòng tiền tăng lên: 50% +/-20% (tức là có từ 50%-70% số người có thể mua cổ phiếu). Dòng tiền trong cổ phiếu tăng lên mức 48%, tăng 8% so với hôm qua (dòng tiền này càng cao thì lực bán càng mạnh). Hình ảnh 3 kịch ban VNI ngày mai: một đi ngang, một tăng mạnh và một giảm. Phân tích lệnh hôm nay: Số lệnh mua nhiều hơn bán, khối lượng mua tăng mạnh so với khối lượng bán nhưng trung bình của một lệnh mua vẫn nhỏ hơn lệnh bán rất nhiều. (nghĩa là NĐT mua vào là NĐT nhỏ, bán ra vẫn là NĐT lớn). Khối lượng khớp lệnh tương đối cao gần bằng khối lượng mua. Điều này cho thấy người mua đã sẵn sàng mua gía cao. Thông tin B, chưa có thông tin gì xấu cũng như tốt so với hôm qua. Tâm lý ở mức A, TTCK MỸ đêm qua tăng mạnh tạo hiệu ứng tâm lý cho NĐT. NĐTNN vẫn thản nhiên bán ra rất mạnh và họ vẫn bán ra trên 3 lần mua vào. Khi VNI tăng thì việc NĐTNN bán ra là chuyện rất bình thường nhưng thời gian gần đây họ bán mạnh bất kể VNI tăng hay giảm. Đây vẫn là tín hiệu xấu và khả năng rủi ro rât cao cho NĐT mua vào. Chỉ số kỳ vọng VNI cho ngày mai hướng lên 338 đạt 35%, trong khi đó chỉ số này hướng xuống 321 là 20% . Hôm qua chỉ số này hướng lên mốc 329 mạnh mẽ hơn và cho một kết quả hôm nay (VNI = 331.62 điểm), một lần nữa cho thấy chỉ số tâm lý có vai trò chủ đạo trong suốt thời gian gần đây.

• Dự đoán ngày mai : Theo lý thuyết BST cho thấy VNI ngày mai tăng nhẹ.

Nhận xét: Mặc dù TT được hỗ trợ một lực cầu mạnh nhưng NĐTNN và NĐT lớn vẫn bán ra rất mạnh. Hình ảnh TTCK hôm nay gần giống hình ảnh TTCK ngày 14-15 vừa qua. VNI tăng được hai ngày 14-15 rồi lại kéo dài những ngày giảm điểm. (Thống kê 20 phiên giao dịch gần nhất cho thấy có đây là phiên thứ tư tăng điểm kể từ phiên tăng điểm gần nhất 21-10-2008). Như vậy VNI tăng điểm hôm nay chưa cho thấy dấu hiệu của một chu kỳ tăng điểm.

Khuyến nghị : Tiếp tục theo dõi động thái NĐTNN.
Mua: Không nên vội mua, mọi sự mạo hiểm hôm nay vẫn còn nhiều rủi ro thua lỗ.
Bán: Bạn nên bán CP vào đầu phiên và có thể mua lại rẽ hơn trong phiên liên tục. Hành động mua bán của bạn phải quyết đoán, dứt khoát. Nếu bạn chần chừ thì sẽ ko mua hoặc bán theo ý bạn được.

Giảm điểm trong nửa đầu ngày giao dịch, Vn-Index có cuộc lội ngược dòng khá ngoạn mục khi bứt lên 1,49%, đóng cửa tại 336,57 điểm, cao hơn đáy mới xác lập vào 28/10 gần 14 điểm.

Không có được khởi đầu thuận lợi như phiên trước, chứng khoán Việt Nam giảm nhẹ sau đợt khớp lệnh đầu tiên. Vn-Index xuống 1,33 điểm, tương ứng 0,4%, mở cửa tại 330,29 điểm. Khối lượng giao dịch trong đợt một đạt 4,37 triệu chứng khoán, giá trị tương ứng 109,48 tỷ đồng.

Việc chứng khoán Mỹ giảm nhẹ vào đêm qua ngay cả khi Cục Dự trữ Liên bang hạ lãi suất đã tạo hiệu ứng xấu lên tâm lý của các nhà đầu tư trong nước. Đa số các mã thuộc nhóm cổ phiếu có giá trị vốn hóa hàng đầu tại HOSE mất điểm đã khiến thị trường đi xuống, dù khá nhiều mã nhỏ và trung bình lên điểm sau đợt một.

Giá cổ phiếu đi theo chiều hướng xấu trong nửa đầu đợt khớp lệnh thứ hai khi sắc đỏ ngày càng lan rộng trên bảng điện tử. Số điểm trừ của Vn-Index từ đó cũng tăng theo, có thời điểm chạm ngưỡng giảm gần 1%. Tuy nhiên, cũng từ thời điểm này, sức cầu quay lại với chứng khoán đã giúp chỉ số chính của HOSE đòi lại số điểm đã mất và vươn lên trên mức tham chiếu.

Vn-Index cần thêm vài phiên nữa để biết liệu giá trị 322,8 điểm, xác lập vào 28/10, đã phải là đáy cuối hay chưa. Ảnh: Hoàng Hà.
Vn-Index cần thêm vài phiên nữa để biết liệu giá trị 322,8 điểm, xác lập vào 28/10, đã phải là đáy cuối hay chưa. Ảnh: Hoàng Hà.

Theo nhận định của một chuyên gia chứng khoán, diễn biến phiên hôm nay chịu tác động đáng kể bởi 3 yếu tố: Cục Dự trữ Liên bang Mỹ cắt giảm lãi suất, đồng yen hạ giá so với đồng đôla, và tâm lý chờ đợi bầu cử Tổng thống Mỹ. Các thông tin trên có tác dụng nâng đỡ đáng kể cho thị trường cổ phiếu toàn cầu, trong đó có cả Việt Nam, ít nhất là trên góc độ tâm lý.

Tuy nhiên, vị chuyên gia này nhận định, chứng khoán tăng điểm nhưng khối lượng giao dịch lại thấp hơn phiên hôm qua. Theo lý thuyết, dấu hiệu hình thành đáy rõ ràng nhất thể hiện ở sự tăng dần của khối lượng giao dịch trong nhiều phiên. Tăng điểm nhưng khối lượng giao dịch sụt giảm cho thấy đà tăng chưa mạnh và vì vậy chưa đủ để phán đoán liệu đáy mới đã được hình thành. Thị trường cần thêm một số phiên nữa để kiểm chứng mức đáy 322 điểm. Vì vậy, nhà đầu tư không nên vội vã nghĩ rằng thị trường đã chạm đáy mà mua vào, cần kiên nhẫn quan sát diễn biến thị trường trong những ngày tới để biết liệu Vn-Index đã chạm đáy hay chưa.

Kết thúc đợt hai, Vn-Index bước chuyển mình đáng kể, tăng 5,44 điểm tương đương 1,64% lên thành 337,06 điểm. Số cổ phiếu được khớp đạt 14,02 triệu giá trị 362,58 tỷ đồng. Trong đợt khớp lệnh định kỳ cuối ngày, đà tăng của thị trường chững lại đôi chút. Vn-Index chỉ còn đi lên 1,49% tương đương 4,95 điểm, và đóng cửa tại 336,57 điểm. Tổng giao dịch toàn thị trường đạt khoảng 17,55 triệu chứng khoán, giá trị 517,05 tỷ đồng. Trong đó, có khoảng 1,64 triệu cổ phiếu thực hiện qua giao dịch thỏa thuận, giá trị 104,05 tỷ đồng.

Toàn sàn có 110 mã tăng, 8 mã đứng giá, và 36 mã thấp hơn tham chiếu.

Trong phiên hôm nay, cổ phiếu HLA của Công ty Cổ phần Hữu Liên Á châu chính thức chào sàn HOSE với số lượng 500 triệu cổ phiếu, giá chào sàn 26.500 đồng. HLA có màn ra mắt khá thành công, kết thúc phiên tại 30.000 đồng, tăng 3.500 đồng, cao hơn 13% so với giá chào sàn. Lượng giao dịch đạt 98 nghìn cổ phiếu.

Tại sàn Hà Nội, HaSTC-Index với lợi thế về biên độ rộng đã có bước tiến 4,5 điểm, tương đương 4,19%. Chỉ số này kết thúc ngày giao dịch tại 111,94 điểm, với lượng thực hiện khoảng 7,44 triệu cổ phiếu, giá trị 190,6 tỷ đồng.

Tính tới thời điểm 16h ngày 30/10/2008, tai Châu Á, hầu khắp các thị trường tăng điểm mạnh mẽ trong đó ấn tượng với thị trường Nhật tăng gần 10% và Hồng Kông tăng gần 13%.

Lúc này tại Châu Âu, chứng khoán cũng đang có xu hướng tăng điểm tiếp.

Còn tại Mỹ, kết thúc phiên giao dịch rạng sáng ngày 30/10 theo giờ VN các chỉ số chứng khoán tại đây đã bất ngờ giảm nhẹ cho dù Cục dữ trữ Liên Bang Mỹ đã quyết định cắt giảm lãi suất đồng USD xuống còn 1%.

Cụ thể:

Tại châu Á, Chỉ số Nikkei 225 của Nhật đã tiếp tục tăng mạnh 817,86 điểm (tương đương tăng 9,96%) lên 9.029,76 điểm. Chỉ số Hang Seng của Hồng Kông cũng tăng mạnh 1.627,78 điểm (tương đương tăng 12,82%) lên 14.329,85 điểm. Chỉ số Singapore Straits Times cũng tăng mạnh 143,16 điểm (tương đương tăng 8,57%) lên 1.814,36 điểm.

Tại châu Âu, chỉ số DAX 30 đang tăng 119,80 điểm (tương đương tăng 2,49%) lên 4.928,49 điểm. Chỉ số CAC 40 đang tăng 6,71 điểm (tương đương tăng 0,20%) lên 3.409,28 điểm. Chỉ số FTSE 100 tăng 5,09 điểm (tương đương tăng 0,12%) lên 4.247,63 điểm.

Tại Mỹ (tính theo chỉ số khi kết thúc phiên giao dịch gần nhất theo giờ địa phương), chỉ số Standard & Poor’s 500 giảm 10,42 điểm (tức giảm 1,1%) xuống mức 930,09 điểm. Chỉ số công nghiệp Dow Jones giảm 74,16 điểm (tức giảm 0,8%) xuống mức 8.990,96 điểm. Chỉ có chỉ số Nasdaq dành cho các công ty công nghệ cao tăng 7,47 điểm (tức tăng 0,47%) lên mức 1.657,21 điểm.

Phương án giảm giá bán lẻ các mặt hàng xăng dầu của các doanh nghiệp vừa được Cục Quản lý Giá – Bộ tài chính đồng ý.

Theo đó, từ 0h ngày mai (31/10), giá xăng bán lẻ trên toàn quốc sẽ tiếp tục giảm thêm 500 đồng/lít. Mức giảm này cũng được áp dụng với giá dầu.

Cụ thể, với mức giảm 500 đồng/lít, mức giá xăng A92 mới là 15.000 đồng một lít; A95 là 15.500 đồng/lít.

Ngoài ra, mức giá mới của dầu diezel còn 14.000 đồng/lít, dầu hỏa còn 15.500 đồng/lít và dầu mazut còn 11.500 đồng/kg.

Được biết, đây là lần thứ 4 liên tiếp trong tháng 10 giá xăng dầu được điều chỉnh giảm. Trước đó vào ngày 8, 17 và 18/10 giá xăng cũng đã được điều chỉnh giảm 500 đồng/lít chia đều cho 3 đợt.

Quyết định điều chỉnh giảm giá xăng dầu trong nước của Bộ tài chính diễn ra trong bối cảnh giá dầu thế giới liên tục hạ nhiệt trong thời gian gần đây. Hiện tại, giá dầu thế giới đang dao động dưới ngưỡng 70 USD/thùng.

Tại thị trường Singapore - nơi cung cấp nguồn hàng chủ yếu cho các doanh nghiệp VN, giá xăng dầu thành phẩm A92 được chào bán với giá trên dưới 62 USD một thùng và dầu DO thành phẩm là 75,33 đôla một thùng, thấp nhất trong gần 17 tháng qua.

Theo tính toán của nhà nhập khẩu, nếu ký hợp đồng mua hàng hôm nay, sau khi trừ đi các khoản chi phí giao thông, kho bãi, hoa hồng đại lý và các khoản thuế, giá đến tay người tiêu dùng vào khoảng dưới 10.000 đồng cho mỗi lít xăng A92 và khoảng 8.000 đồng cho mỗi lít dầu.

Như vậy, nếu nhập được hàng với giá này thì mỗi lít xăng A92, doanh nghiệp lãi khoảng 5.500 đồng và khoảng 6.000 đồng cho mỗi lít dầu.

29/10: Giao dịch tiếp tục tăng mạnh, VN-Index lên trên 330 điểm

Wednesday, October 29, 2008 |

Chứng khoán ngày 29/10, tiếp tục có phiên giao dịch và đã chính thức ghi nhận chỉ số VN-Index tăng điểm trở lại sau 5 phiên liên tiếp giảm điểm trong đó với 3 phiên giảm mạnh khiến VN-Index xuống mức rất thấp.

Diễn biến phiên giao dịch hôm qua đã mở ra một hướng tích cực hơn cho thị trường khi đà giảm điểm của chỉ sô VN-Index đã chậm lại khá nhiều trước sức cầu có dấu hiệu tăng lên.

Đồng thời nhận được sự hỗ trợ khá tốt khi thông tin thị trường chứng khoán toàn cầu tăng điểm mạnh mẽ khi tại thị trường Mỹ trong phiên giao dịch kết thúc rạng sáng nay (theo giờ VN) các chỉ số đã tăng mạnh đến hơn 10%, cùng lúc này trên thị trường khu vực Châu Á, chứng khoán khắp nơi cũng đang tăng mạnh mẽ.

Đón nhận những thông tin trên, ngay đợt mở cửa, chứng khoán Việt Nam cũng hoà chung không khí khởi sắc này khi kết thúc giao dịch đợt 1 chỉ số VN-Index tăng mạnh mẽ 13,95 điểm (tương đương tăng 4,32%) lên 336,75 điểm. Khối lượng giao dịch tăng khá nhiều với hơn 4,77 triệu đơn vị được giao dịch với gái trị là 120,415 tỷ đồng.

Tưởng chừng sẽ có phiên giao dịch dễ dàng tuy nhiên đến nửa sau của đợt khớp lệnh liên tục lượng cung lại cũng tăng mạnh khiến VN-Index tỏ ra đuối sức, tâm lý lo ngại mắc bẫy giá lên đã khiến nhiều cổ phiếu quay đầu đi xuống.

Giao dịch không suôn sẻ ở một số mã cổ phiếu có mặt trong tốp 10 cổ phiếu có mức vốn hoá lớn nhất sàn HOSE tạo gánh nặng cho VN-Index trong đợt 2 là DPM của Đạm Phú Mỹ, nếu như trong phiên trước đó DPM tạo sức bật cho thị trường thì phiên này thường đứng mức tham chiếu, trong khi đó HPG của Hoà Phát khá ảm đạm trong phần lớn thời gian giao dịch dưới mức tham chiếu. Ngoài ra còn có VIC của Vincom và VPL của Vinpearl JSC cũng không ổn định.

Tuy vậy chốt lại đợt 2 DPM cũng tăng trở lại, HPG và VIC cũng về mức tham chiếu, chỉ số VN-Index tăng 8,66 điểm (tương đương tăng 2,68%) lên 331,46 điểm. Khối lượng giao dịch tăng vọt với gần 18,7 triệu đơn vị được chuyển nhượng, giá trị đạt 473,91 tỷ đồng.

Kết quả đợt khớp lệnh liên tục gần như đã xác định chắc chắn phiên này, thị trường đã đảo chiều và kết thúc 15 phút giao dịch cuối cung, chỉ số VN-Index tăng khá tốt 8,82 điểm (tương đương tăng 2,73%) lên 331,62 điểm.

Tổng khối lượng giao dịch của cổ phiếu và chứng chỉ quỹ được khớp lệnh thành công tiếp tục tăng mạnh lên hơn 20,65 triệu đơn vị với giá trị đạt 522,97 tỷ đồng. Tức là đã tăng 25% về khối lượng và tăng 32% về giá trị so với phiên giao dịch trước đó.

Biến động giá cổ phiếu phiên này ghi nhận 80% số mã chứng khoán niêm yết tăng giá, cụ thể trong tổng số 160 mã cổ phiếu và 4 chứng chỉ quỹ niêm yết đã có 132 mã tăng giá (trong đó có 87 mã tăng kịch trần), chỉ có 21 mã giảm giá (trong đó 12 mã giảm giá sàn), còn lại là 11 mã đứng giá.

Tốp 10 cổ phiếu có mức vốn hoá lớn ngoài các mã đã đề cập phía trên ảnh hưởng tới sức tăng của VN-Index còn lại các mã khác đều tăng trần như: STB của Sacombank (+900 đồng lên 19.900 đồng/cp), PVD của PV Drilling (+3.500 đồng lên 74.500 đồng/cp), FPT của CTCP Phát triển Đầu tư Công nghẹ FPT (+3.000 đồng lên 68.000 đồng/cp), SSI của Chứng khoán Sài Gòn (+1.300 đồng lên 28.900 đồng/cp), VNM của Vinamilk (+3.000 đồng lên 71.000 đồng/cp), PPC của Nhiệt điện Phả Lại (+900 đồng lên 20.300 đồng/cp).

Trong khi đó nhóm giảm giá có một số mã đáng chú ý như: ITA của ITACO, VHC của CTCP Vĩnh Hoàn, TMS của Trasimex Saigon, TAC của Dầu thực vật Tường An, LBM của Khoáng sản Lâm Đồng và một số cổ phiếu cao su là DPR, TRC, HRC.

Về khối lượng giao dịch, các cổ phiếu Blue-chips vẫn là các mã thanh khoản lớn nhất STB (2,38 triệu cp), SSI (1,25 triệu cp), DPM (1,23 triệu cp), HPG (1,19 triệu cp), SAM (0,89 triệu cp), VTO (0,89 triệu cp), ITA (0,78 triệu cp)...

Chi tiết giao dịch ngày 29/10:
(Đơn vị giá: 1.000đ, Đơn vị KL: 1CP)

Mã CK

Giá cao nhất

Giá thấp nhất

Giá đóng cửa

Thay đổi

%Thay đổi

Khối lượng

ABT

27.6

26.8

26.9

0.6

2.28

15,460

ACL

36.4

35

36.4

1.7

4.90

56,710

AGF

17.9

17.9

17.9

0.8

4.68

30,130

ALP

9.8

9.4

9.7

0.3

3.19

72,720

ALT

25.2

24.4

24.4

0.4

1.67

2,110

ANV

21.4

20.4

20.4

0

0.00

145,080

ASP

11.4

10.4

11

0.1

0.92

63,770

BBC

14.3

14

14.3

0.6

4.38

189,910

BBT

5.8

5.8

5.8

-0.3

-4.92

39,690

BHS

14.2

13.2

14.1

0.5

3.68

7,000

BMC

77.5

71

76.5

2.5

3.38

125,530

BMI

17.6

16.8

17.5

0.7

4.17

63,850

BMP

32.3

32.2

32.3

1.5

4.87

44,080

BPC

11.4

11.4

11.4

0.5

4.59

11,380

BT6

57.5

57

57

2

3.64

1,260

BTC

25.8

23.5

24.6

0

0.00

11,160

CAN

11.4

11.1

11.4

0.5

4.59

3,560

CII

24.6

23.2

24.6

1.1

4.68

104,430

CLC

16

15.3

16

0.7

4.58

2,140

CNT

12.7

11.5

11.6

-0.5

-4.13

51,210

COM

34.7

32

34.4

0.8

2.38

7,060

CYC

14.9

14.1

14.5

0.3

2.11

49,340

DCC

12.4

11.9

12

0.1

0.84

18,020

DCL

37.2

36

37.1

1.6

4.51

32,860

DCT

10.5

9.9

10.4

0.4

4.00

70,320

DDM

15.7

14.8

15.7

0.7

4.67

74,380

DHA

19.5

18.8

19.5

0.9

4.84

57,930

DHG

99

98.5

99

4.5

4.76

42,440

DIC

17.7

16.9

17.7

0.8

4.73

73,430

DMC

51.5

49.4

50.5

1.1

2.23

37,420

DNP

10

10

10

0.4

4.17

14,630

DPC

11.9

11.9

11.9

0.5

4.39

1,000

DPM

48.8

46

48

1.5

3.23

1,228,150

DPR

38.3

34.7

34.7

-1.8

-4.93

124,150

DQC

17.3

16.5

17.3

0.8

4.85

86,430

DRC

21.6

19.7

21.5

0.9

4.37

27,720

DTT

10.8

10.3

10.8

0.5

4.85

2,730

DXP

25.5

24.4

25.5

1.2

4.94

69,660

DXV

8.4

8

8

0

0.00

27,450

FBT

15.9

14.5

15.9

0.7

4.61

24,300

FMC

11.7

10.8

11.4

0.1

0.88

69,760

FPC

21

19

20

0

0.00

5,770

FPT

68

67

68

3

4.62

425,290

GIL

14.3

13.7

14.3

0.6

4.38

64,270

GMC

15.9

15.8

15.8

0.6

3.95

2,170

GMD

34.4

32.8

33.5

0.7

2.13

212,670

GTA

10.9

10.4

10.7

0.3

2.88

6,290

HAP

21.7

20

21.7

1

4.83

104,550

HAS

12.6

11.9

12.6

0.6

5.00

15,400

HAX

18

16.5

17.9

0.7

4.07

16,990

HBC

17.1

16.5

17

0.7

4.29

60,470

HBD

10.8

10.5

10.5

0.2

1.94

5,390

HDC

22.4

22

22.4

1

4.67

20,710

HMC

15.5

14.7

15.4

0.6

4.05

50,120

HPG

34.2

31.2

32.6

0

0.00

1,189,670

HRC

27.1

24.7

24.7

-1.2

-4.63

133,810

HSI

13.8

13

13.7

0.5

3.79

30,880

HT1

14.5

14

14.5

0.6

4.32

39,900

HTV

10.5

10

10.4

0.4

4.00

31,560

ICF

8.8

8.7

8.8

0.4

4.76

37,480

IFS

9.2

9.2

9.2

0.4

4.55

16,710

IMP

74.5

72

74.5

3.5

4.93

9,410

ITA

30.6

27.8

29

-0.2

-0.68

779,820

KDC

34.9

33

33.3

0

0.00

115,040

KHA

11.4

11

11.4

0.5

4.59

58,480

KHP

10.6

10.2

10.6

0.5

4.95

83,040

KMR

8

7.4

7.9

0.2

2.60

100,830

L10

12.1

12.1

12.1

0.5

4.31

2,270

LAF

13.5

13

13

0

0.00

125,390

LBM

23

21

21

-1.1

-4.98

335,110

LGC

20.9

19.1

19.1

-1

-4.98

36,930

LSS

14.5

14.4

14.5

0.6

4.32

43,090

MAFPF1

4.3

4.1

4.3

0.2

4.88

14,120

MCP

15.7

15

15.7

0.7

4.67

49,580

MCV

11.6

11.1

11.6

0.5

4.50

138,170

MHC

10.7

10.1

10.1

-0.5

-4.72

366,480

MPC

12.2

11.7

12.2

0.5

4.27

226,460

NAV

13.8

13.1

13.7

0.5

3.79

33,840

NHC

43

41.5

43

2

4.88

12,660

NKD

33.3

33

33.3

1.5

4.72

25,340

NSC

25.8

24.6

25.8

1.2

4.88

21,150

NTL

38.6

37

38.6

1.8

4.89

123,070

PAC

41.5

39.6

41.3

1.7

4.29

38,750

PET

16.9

16

16.9

0.8

4.97

171,960

PGC

11

10.8

11

0.5

4.76

69,050

PIT

14.3

13.7

14.3

0.6

4.38

31,300

PJT

12.6

12.1

12.6

0.6

5.00

39,930

PMS

19.3

18.4

19.3

0.9

4.89

2,030

PNC

10.5

10.4

10.4

0.4

4.00

5,800

PPC

20.3

20.3

20.3

0.9

4.64

200,030

PRUBF1

4.3

4.2

4.3

0.2

4.88

254,310

PVD

74.5

74

74.5

3.5

4.93

289,350

PVT

18.7

18.7

18.7

0.8

4.47

240,380

RAL

28.7

27.5

28.7

1.3

4.74

19,280

REE

25.4

24

25

0.8

3.31

455,080

RHC

17.8

17.7

17.8

0.8

4.71

5,840

RIC

14.3

13.9

14.2

0.5

3.65

4,740

SAF

19.4

17.6

17.6

-0.9

-4.86

5,800

SAM

15.6

14.8

15.6

0.7

4.70

893,820

SAV

12.6

11.8

12.6

0.6

5.00

12,600

SBT

9.4

9

9.2

0.2

2.22

138,000

SC5

26.2

25.9

26

1

4.00

73,710

SCD

17.9

17.8

17.9

0.8

4.68

640

SDN

20.8

20.8

20.8

0.8

4.00

10

SFC

38.7

38.6

38.6

1.6

4.32

360

SFI

41.8

41

41.8

1.9

4.76

52,350

SFN

10.7

10.7

10.7

0.5

4.90

1,810

SGC

13

12

12

-0.4

-3.23

4,910

SGH

79.5

76

79

3

3.95

2,010

SGT

26.5

25.4

26.5

1.2

4.74

153,730

SHC

28.2

28.2

28.2

1.3

4.83

14,350

SJ1

16.5

16.5

16.5

0.7

4.43

3,440

SJD

14.9

14.6

14.8

0.6

4.23

38,610

SJS

56

53.5

56

2.5

4.67

217,500

SMC

22.7

21.7

21.8

0.1

0.46

48,570

SSC

21.1

21.1

21.1

1

4.98

17,490

SSI

28.9

27.6

28.9

1.3

4.71

1,245,200

ST8

26.1

26.1

26.1

1.2

4.82

8,030

STB

19.9

19.4

19.9

0.9

4.74

2,380,740

SZL

57.5

56

57.5

2.5

4.55

46,340

TAC

26.2

24.9

24.9

-1.3

-4.96

363,280

TCM

9.7

9.4

9.7

0.4

4.30

55,830

TCR

11.2

10.8

11.2

0.5

4.67

65,430

TCT

81.5

80

81.5

3.5

4.49

15,800

TDH

27.7

27

27.7

1.3

4.92

106,580

TMC

26.5

25.9

26.4

1.1

4.35

14,040

TMS

39.4

35.8

35.8

-1.8

-4.79

3,110

TNA

18

16.5

16.5

-0.7

-4.07

5,720

TNC

10.6

10.1

10.6

0.5

4.95

64,470

TPC

7.4

7.2

7.4

0.3

4.23

79,020

TRC

32.2

29.2

29.2

-1.5

-4.89

215,960

TRI

11

10

10.2

-0.3

-2.86

27,720

TS4

9.8

9.1

9.4

0

0.00

86,420

TSC

50.5

48.5

50.5

2.2

4.55

100,510

TTC

11

10.2

10.2

-0.5

-4.67

61,690

TTF

17.8

16.2

16.4

-0.6

-3.53

11,250

TTP

18.5

18.3

18.5

0.8

4.52

111,050

TYA

13.8

13.1

13.8

0.6

4.55

103,270

UIC

11.4

11.4

11.4

0.5

4.59

16,620

UNI

14.4

14.4

14.4

0.6

4.35

14,480

VFC

9.4

9.1

9.3

0.3

3.33

77,710

VFMVF1

8.7

8.4

8.7

0.4

4.82

404,370

VFMVF4

5

4.9

5

0.2

4.17

523,410

VGP

21.4

20.5

20.5

0.1

0.49

8,330

VHC

21.9

19.9

20

-0.9

-4.31

14,700

VHG

9.4

8.7

9.3

0.2

2.20

37,760

VIC

75

71.5

71.5

0

0.00

45,410

VID

9.8

9.5

9.8

0.4

4.26

38,090

VIP

13.4

13

13.4

0.6

4.69

162,450

VIS

25.2

24

24.9

0.9

3.75

110,790

VKP

8.2

7.8

7.9

0

0.00

38,250

VNA

23.3

21.2

21.2

-1.1

-4.93

197,510

VNE

8.1

7.5

7.7

-0.1

-1.28

328,930

VNM

71

71

71

3

4.41

123,380

VNS

19.9

18.9

19

0

0.00

62,550

VPK

8.7

8.3

8.7

0.4

4.82

4,350

VPL

85

78.5

78.5

-3.5

-4.27

34,690

VSC

62

61.5

62

2.5

4.20

29,430

VSG

13

12.4

13

0.6

4.84

10,770

VSH

28.3

27.9

28.3

1.3

4.81

405,490

VTA

8.4

8.4

8.4

0.4

5.00

5,720

VTB

14.4

13.8

14

0.2

1.45

13,210

VTC

11.5

11.2

11.5

0.5

4.55

7,100

VTO

14.9

14.2

14.9

0.7

4.93

889,880

ATPVietnam