Vn-Index ngấp nghé ngưỡng 400 điểm

Wednesday, October 8, 2008 |


Hôm nay 8/10, Vn-Index bước vào bài test ngưỡng 400 điểm. Dù ngưỡng kháng cự này chưa bị phá vỡ nhưng Vn-Index có thời điểm đã "đặt một chân" xuống dưới 400 điển khiến nhà đầu tư có lý do để lo rằng, diễn biến của chứng khoán sẽ tiếp tục xấu đi trong ngày mai.

Khủng hoảng tài chính tại Mỹ và châu Âu như một cơn lũ quét qua thị trường cổ phiếu toàn cầu. Những gì diễn ra với chứng khoán Mỹ và châu Âu đêm qua tiếp tục làm chùn bước nhà đầu tư nội. Vn-Index đang đứng khá gần mức hỗ trợ 400 điểm.

Sự e dè của giới chứng khoán khiến chỉ số này sụt xuống dưới 400 điểm trong đợt khớp lệnh đầu tiên. Từ đó, mở cửa tại 397,2 điểm, giảm 17,04 điểm, ứng với 4,11%. Lượng trao tay đạt 5,29 triệu chứng khoán, tương đương 155,27 tỷ đồng.

Mức điểm dưới 400 dẫu không thể đảm bảo cho một phiên khởi sắc nhưng cũng không dễ bị phá vỡ. Khá đông nhà đầu tư đặt hy vọng vào mức chống đỡ này, và đó cũng là lý do giúp Vn-Index nhanh chóng bật lên gần 1% ngay từ đầu đợt hai. Từ đó đưa số điểm trừ của Vn-Index xuống khoảng 3,2%.

Giá cổ phiếu trở nên hấp dẫn hơn sau những phiên gần đây, tuy nhiên nhà đầu tư dường như chưa sẵn sàng mua vào. Ảnh: Hoàng Hà.

Tuy nhiên, đà hồi phục này đã không được duy trì trong quãng thời gian còn lại của ngày giao dịch. Nét tích cực phần lớn chỉ xuất hiện tại các cổ phiếu nhỏ, trong khi các blue-chip như SSI, STB, HPG, REE, SJS hay DPM gần như đều "bám trụ" tại giá sàn hoặc gần sàn.

Điểm sáng hiếm hoi trong nhóm 20 cổ phiếu có giá trị vốn hóa hàng đầu tại HOSE thuộc về cổ phiếu VNM. Không giống như người anh em HNM, "đo" sàn HASTC từ đầu phiên, đại gia trong ngành thực phẩm này không chịu ảnh hưởng của vụ scandal sữa độc. Thậm chí, theo một chuyên gia chứng khoán, việc sản phẩm sữa của nhiều công ty khác trên thị trường có chứa melamin lại trở thành cơ hội cho VNM gia tăng thị phần.

Nhờ diễn biến trên, cổ phiếu VNM không những không sụt giá mà còn đi lên trong phần lớn thời gian của đợt khớp lệnh thứ hai. Tuy mã này đóng cửa tại tham chiếu nhưng so với đà đi xuống của toàn sàn, kết quả hòa đã là khá tích cực với cổ đông của VNM.

Đợt khớp lệnh liên tục trôi qua, cuốn theo hy vọng của nhiều nhà đầu tư vào một phiên tăng để cắt chuỗi giảm kéo dài 3 phiên. Lượng mua vào chỉ đủ để Vn-Index giới hạn mức điểm trừ ở 13,63 điểm, ứng với 3,29%. Số cổ phiếu sang tên tính tới hết đợt hai là 13,5 triệu, giá trị khoảng 383,43 điểm.

15 phút giao dịch khớp lệnh cuối phiên là cơ hội để thị trường xóa bớt thiệt hại tích lũy từ đợt một. Vn-Index đóng cửa tại 401,33 điểm, thấp hơn tham chiếu 3,12%, tương đương 12,91 điểm.

Tổng giao dịch toàn thị trường là 17,17 triệu chứng khoán, giá trị 580,25 tỷ đồng. Lượng thực hiện qua giao dịch thỏa thuận đạt 2,15 triệu cổ phiếu, giá trị 155,49 tỷ đồng.

Bảng điện tử ghi nhận 23 mã tăng, 13 mã giảm, và 129 mã mang sắc đỏ.

Khối ngoại hôm nay đẩy mạnh xả hàng khi mua vào 1,6 triệu và bán ra 3,03 triệu cổ phiếu và chứng chỉ quỹ.

Hôm nay, biên độ dao động giá lên tới 7% tại HaSTC tiếp tục khiến dân chứng khoán đau đầu. Kết thúc ngày giao dịch, HaSTC-Index có giá trị đóng cửa là 127,53 điểm, xuống 7,45 điểm, ứng với 5,52%, cao hơn khá nhiều so với đà xuống điểm của HOSE. Khối lượng thực hiện là 10,08 triệu cổ phiếu, giá trị 318,47 tỷ đồng.

Mặc dù phiên giao dịch sáng nay (8/10), chứng khoán đã có những biến chuyển nhất định nhưng thị trường vẫn không tránh khỏi phiên giao dịch giảm mạnh thứ 3 trong tuần và đã là phiên giảm điểm thứ 4 liên tiếp của VN-Index.

Thông tin hỗ trợ trong nước được công bố hôm qua là việc giảm giá xăng 500 đồng xuống còn 16.500 đồng/lít, trước đó giá dầu hoả cũng đã được một số công ty điều chỉnh xuống, thế nhưng dường như thị trường vẫn không có những phản ứng tích cực hơn nữa giúp thị trường tránh được phiên giảm điểm khá mạnh nữa.

Trong khi đó yếu tố bên ngoài vẫn nhiều khả năng có sự ảnh hưởng lớn khi thị trường Mỹ trong đêm hôm qua, rạng sáng nay theo giờ VN tiếp tục giảm mạnh. Đồng thời cùng lúc này thị trường Châu Á cũng tồi tệ không kém khi hầu hết các chỉ số ở các thị trường chủ chốt đang để mất hơn 4% nữa.

Tiếp nối đà giảm mạnh của 2 phiên giao dịch trước đó, kết thúc giao dịch đợt 1, chỉ số VN-Index đã để mất ngưỡng 400 điểm khi giảm 17,04 điểm (tương đương giảm 4,11%) xuống còn 397,2 điểm và đây là lần thứ 2 kể từ đầu năm đến nay VN-Index phải xuống dưới ngưỡng này (lần đầu vào ngày 4/6/2008).

Dấu hiệu đáng kể nhất để giới đầu tư hy vọng thị trường sẽ khởi sắc hơn là khối lượng giao dịch trong đợt 1 bất ngờ tăng lên khá mạnh với gần 5,3 triệu đơn vị, trị giá là 155,27 tỷ đồng.

Và đúng như vậy, thị trường bước sang giao dịch đợt 2 đã bớt căng thẳng hơn khi chỉ số VN-Index hãm đà giảm điểm và lấy lại được ngưỡng 400 điểm, tuy vậy giao dịch vẫn chưa tạo được sự đột biến, VN-Index vẫn để mất 13,63 điểm (tương đương giảm 3,29%) xuống còn 400,61 điểm.

Khối lượng giao dịch khi kết thúc đợt 2 đạt hơn 13,5 triệu đơn vị với giá trị là 383,43 tỷ đồng.

Giao dịch đợt 3 kết thúc và cũng chốt lại phiên giao dịch, VN-Index giảm chậm lại tuy nhiên vẫn để mất điểm khá mạnh là 12,91 điểm (tương đương giảm 3,12%) xuống còn 401,33 điểm.

Khối lượng giao dịch của cổ phiếu và chứng chỉ quỹ được khớp lệnh thành công phiên này tăng khá mạnh lên hơn 15 triệu đơn vị (tức là tăng 47% so với phiên trước đó) với giá trị tương ứng là 424,75 tỷ đồng (chỉ tăng có 21,45% so với phiên giao dịch trước đó).

Trong tổng số 160 mã cổ phiếu và 4 chứng chỉ quỹ niêm yết màu xanh đã xuất hiện nhiều hơn với 24 mã tăng giá (với 6 mã tăng giá trần), vẫn còn 127 mã giảm giá (trong đó 92 mã giảm giá sàn), 12 mã giữ mức giá tham chiếu (với 1 mã không có giao dịch).

Nhóm cổ phiếu có mức vốn hoá lớn trên sàn vẫn chưa thể đóng góp gì cho VN-Index khi đều tiếp tục giảm giá ngoại trừ VNM của Vinamilk giữ được mức tham chiếu (90.000 đồng/cp).

Cụ thể, một số mã giảm sàn trong nhóm này là FPT của Tập đoàn FPT (-4.000 đồng xuống 79.000 đồng/cp), HPG của Hoà Phát (-2.300 đồng xuống 45.200 đồng/cp), SSI của Chứng khoán Sài Gòn (-2.300 đồng xuống 45.200 đồng/cp), STB của Sacombank (-1.100 đồng xuống 21.100 đồng/cp), VPL của Vinpearl (-5.000 đồng xuống 99.000 đồng/cp).

Nhóm tăng giá hầu hết là các mã cổ phiếu nhỏ và tăng giá mạnh nhất là IMP của Imexpharm (+4.000 đồng lên 91.000 đồng/cp), SGH của Saigon Hotel (-3.500 đồng lên 89.000 đồng/cp), DCL của Dược Cửu Long và VSC của CTCP Container VN cùng tăng 2.000 đồng lên tương ứng 57.500 đồng/cp và 69.500 đồng/cp....

Về khối lượng khớp lệnh STB vẫn đứng đầu (4,17 triệu cp), DPM (1,01 triệu cp), HPG (0,51 triệu cp), SAM (0,48 triệu cp), PPC (0,44 triệu cp), PVD (0,34 triệu cp), VTO 90,3 triệu cp)...

Chi tiết giao dịch ngày 8/10:
(Đơn vị giá: 1.000đ; Đơn vị KL: 1 CP)

Mã CK

Giá cao nhất

Giá thấp nhất

Giá đóng cửa

Thay đổi

%Thay đổi

Khối lượng

ABT

32

31.1

32

-0.7

-2.14

10,140

ACL

38

36.2

36.3

-1.7

-4.47

42,940

AGF

23

22

23

0.2

0.88

17,150

ALP

13.2

12.3

12.3

-0.6

-4.65

110,580

ALT

30.8

28

30.8

1.4

4.76

1,500

ANV

35

34.5

34.5

-1.8

-4.96

91,270

ASP

11.7

11.3

11.4

-0.3

-2.56

27,300

BBC

20.3

19.8

19.8

-1

-4.81

73,010

BBT

6.1

6.1

6.1

-0.3

-4.69

64,820

BHS

17

16.2

16.9

0

0.00

5,810

BMC

104

104

104

-5

-4.59

14,460

BMI

26

24.9

24.9

-1.3

-4.96

88,700

BMP

41.6

41.6

41.6

-2.1

-4.81

3,060

BPC

13

12.1

13

0.3

2.36

1,890

BT6

54.5

50

52.5

0

0.00

11,460

BTC

30.4

30.4

30.4

-1.6

-5.00

200

CAN

13.1

12.5

12.6

-0.5

-3.82

25,640

CII

28.5

28.5

28.5

-1.4

-4.68

44,300

CLC

18.1

16.5

18.1

0.8

4.62

4,700

CNT

18.9

18.1

18.1

-0.9

-4.74

22,770

COM

33.8

31

32

-0.3

-0.93

2,420

CYC

16.3

15.5

15.5

-0.8

-4.91

21,600

DCC

13.8

12.8

13.5

0.2

1.50

5,690

DCL

57.5

53.5

57.5

2

3.60

12,040

DCT

11.3

10.9

11

0.1

0.92

38,910

DDM

21

21

21

-1.1

-4.98

59,100

DHA

22.4

21.3

21.3

-1.1

-4.91

102,680

DHG

119

114

119

0

0.00

31,280

DIC

16.4

16.3

16.3

-0.8

-4.68

35,300

DMC

58

53

53

-2.5

-4.50

37,680

DNP

11.7

11.2

11.7

0

0.00

36,150

DPC

13.4

13.3

13.3

-0.7

-5.00

1,220

DPM

52

50

52

-0.5

-0.95

1,009,540

DPR

58

55.5

58

1

1.75

31,490

DQC

30

29.2

29.2

-1.5

-4.89

169,160

DRC

32

30.7

32

-0.3

-0.93

23,800

DTT

12

11.7

12

-0.2

-1.64

10,560

DXP

27.5

27.5

27.5

-1.4

-4.84

9,620

DXV

10

9.5

9.5

-0.5

-5.00

43,790

FBT

19

19

19

-0.9

-4.52

75,910

FMC

13.6

13.2

13.2

-0.6

-4.35

81,860

FPC






0

FPT

79

79

79

-4

-4.82

181,880

GIL

17.8

16.6

16.7

-0.4

-2.34

17,250

GMC

19.1

17.6

17.7

-0.8

-4.32

5,990

GMD

45.4

45.2

45.2

-2.3

-4.84

138,360

GTA

12.8

11.7

12.5

0.3

2.46

13,430

HAP

24

23.3

23.3

-1.2

-4.90

119,000

HAS

14.3

13.3

13.5

-0.4

-2.88

24,070

HAX

22.7

21.3

22.7

0.8

3.65

10,950

HBC

21.1

21.1

21.1

-1.1

-4.95

6,760

HBD

12

12

12

0.5

4.35

1,230

HDC

27.5

27.2

27.2

-1.4

-4.90

38,280

HMC

20.6

19.6

19.6

-1

-4.85

120,800

HPG

45.2

45.2

45.2

-2.3

-4.84

515,490

HRC

44.7

44.7

44.7

-2.3

-4.89

24,020

HSI

18.3

17.6

18.3

-0.2

-1.08

11,510

HT1

14.7

14.1

14.7

-0.1

-0.68

67,430

HTV

12.3

12.1

12.1

-0.6

-4.72

57,710

ICF

10.5

10.1

10.1

-0.4

-3.81

25,410

IFS

10.9

10.8

10.8

-0.5

-4.42

25,370

IMP

91

83

91

4

4.60

27,870

ITA

39.6

39.6

39.6

-2

-4.81

31,080

KDC

43.4

43.4

43.4

-2.2

-4.82

9,700

KHA

13.4

12.8

13

-0.4

-2.99

54,030

KHP

13

12.6

13

-0.2

-1.52

104,170

KMR

10.7

10.6

10.6

-0.5

-4.50

113,950

L10

14.2

13

14

0.4

2.94

19,770

LAF

18.5

18

18

-0.9

-4.76

97,670

LBM

25.2

25.2

25.2

-1.3

-4.91

21,260

LGC

24.7

24.7

24.7

-1.2

-4.63

3,170

LSS

15

15

15

-0.7

-4.46

15,620

MAFPF1

4.7

4.5

4.7

0

0.00

5,110

MCP

13.9

12.7

13.8

0.5

3.76

38,300

MCV

13.6

13.6

13.6

-0.7

-4.90

26,340

MHC

12.5

11.8

12.2

-0.2

-1.61

39,200

MPC

13.3

13.3

13.3

-0.7

-5.00

14,690

NAV

15.1

14.5

14.7

-0.4

-2.65

25,540

NHC

45.9

43.7

43.7

-2.2

-4.79

22,310

NKD

46.2

46.1

46.1

-2.4

-4.95

5,630

NSC

27

26

27

0

0.00

29,700

NTL

41.8

41.8

41.8

-2.2

-5.00

6,700

PAC

42.6

41

41

-1.6

-3.76

44,790

PET

21.2

21.2

21.2

-1.1

-4.93

55,610

PGC

13

12.4

12.5

-0.5

-3.85

80,630

PIT

17.9

16.4

17.9

0.8

4.68

37,160

PJT

14.2

13.8

13.8

-0.7

-4.83

31,650

PMS

20.4

18.7

19.5

0

0.00

560

PNC

12

11.5

12

-0.1

-0.83

2,200

PPC

27.5

26.6

26.8

-1.1

-3.94

447,810

PRUBF1

4.4

4.3

4.3

-0.1

-2.27

90,350

PVD

81.5

80

81

-2.5

-2.99

344,900

PVT

20.2

20.2

20.2

-1

-4.72

81,120

RAL

36

34.2

35

-1

-2.78

17,950

REE

33.3

33.3

33.3

-1.7

-4.86

60,310

RHC

22

21.1

21.1

-1.1

-4.95

5,520

RIC

17

16.9

17

-0.7

-3.95

33,030

SAF

19.5

19.5

19.5

-1

-4.88

3,400

SAM

21

20.6

20.6

-1

-4.63

488,030

SAV

13.8

12.9

13.8

0.3

2.22

7,940

SBT

10.3

9.8

10.3

0

0.00

199,810

SC5

30

29

30

0

0.00

87,220

SCD

18.5

17.6

17.6

-0.4

-2.22

5,220

SDN

22

22

22

-1.1

-4.76

10

SFC

36.1

36.1

36.1

-1.8

-4.75

10

SFI

54

53

53

-2.5

-4.50

53,230

SFN

12.2

11.3

12.2

0.4

3.39

580

SGC

14

14

14

-0.7

-4.76

15,620

SGH

89

85.5

89

3.5

4.09

910

SGT

30.4

30.4

30.4

-1.5

-4.70

50,730

SHC

46

42.4

46

1.6

3.60

59,080

SJ1

16.3

16.2

16.3

-0.7

-4.12

3,940

SJD

15.5

14.7

15.4

0.2

1.32

25,720

SJS

78

78

78

-4

-4.88

74,290

SMC

27.7

27.5

27.5

-1.4

-4.84

59,730

SSC

21.4

21.4

21.4

-1.1

-4.89

22,600

SSI

45.2

45.2

45.2

-2.3

-4.84

85,330

ST8

29.7

29.7

29.7

-1.5

-4.81

13,910

STB

22

21.1

21.1

-1.1

-4.95

4,175,540

SZL

54

51.5

51.5

-2.5

-4.63

26,460

TAC

44.7

44.7

44.7

-2.3

-4.89

8,290

TCM

11.9

11

11

-1.5

-12.00

190,800

TCR

12.2

12.2

12.2

-0.6

-4.69

6,680

TCT

93.5

93.5

93.5

-4.5

-4.59

10,280

TDH

35.5

34.5

34.5

-1.8

-4.96

213,400

TMC

32

31.8

31.8

-1.6

-4.79

20,290

TMS

40

38

39.1

-0.9

-2.25

1,590

TNA

19.5

19.1

19.1

-1

-4.98

14,300

TNC

13.2

12.8

12.8

-0.6

-4.48

73,170

TPC

9.6

9.6

9.6

-0.5

-4.95

40,420

TRC

54.5

53.5

54

-2

-3.57

48,280

TRI

15

14.3

15

0

0.00

7,540

TS4

13.1

13.1

13.1

-0.6

-4.38

1,190

TSC

58

55

55

-2.5

-4.35

28,020

TTC

11.8

10.8

10.8

-0.5

-4.42

22,970

TTF

21.8

20.8

20.8

-1

-4.59

35,130

TTP

19.5

19

19

-1

-5.00

204,770

TYA

15.5

15.3

15.3

-0.8

-4.97

144,020

UIC

12.1

12.1

12.1

-0.6

-4.72

35,000

UNI

18.2

18.2

18.2

-0.9

-4.71

14,640

VFC

12.7

11.5

11.5

-0.6

-4.96

78,100

VFMVF1

10

9.8

9.8

-0.5

-4.85

482,150

VFMVF4

6.1

5.7

6.1

0.2

3.39

195,420

VGP

24.6

23.4

23.4

-1.2

-4.88

12,890

VHC

24.5

24.5

24.5

-1.2

-4.67

11,950

VHG

13.8

12.9

12.9

-0.6

-4.44

11,000

VIC

88

82

84

-2

-2.33

66,600

VID

10.5

10

10.4

0

0.00

140,290

VIP

15.2

15.2

15.2

-0.7

-4.40

158,050

VIS

23.3

23.3

23.3

-1.2

-4.90

29,200

VKP

10.6

10.5

10.5

-0.5

-4.55

51,710

VNA

34

32.3

32.4

-1.6

-4.71

85,950

VNE

11

10.7

10.7

-0.5

-4.46

168,780

VNM

91

89

90

0

0.00

269,270

VNS

21.3

20.5

20.5

-0.9

-4.21

48,350

VPK

10.5

10

10

-0.5

-4.76

16,800

VPL

100

99

99

-5

-4.81

53,860

VSC

70

65.5

69.5

2

2.96

15,920

VSG

16.3

15.5

15.5

-0.8

-4.91

41,260

VSH

28

26.7

28

-0.1

-0.36

236,340

VTA

10

9.5

9.5

-0.1

-1.04

7,250

VTB

16.6

15.4

16.6

0.4

2.47

2,100

VTC

13

12.3

13

0.1

0.78

3,950

VTO

15.3

15.3

15.3

-0.8

-4.97

306,010

ATPVietnam