Vn-Index tăng phiên thứ hai liên tiếp

Friday, November 14, 2008 |

Cộng hưởng cùng sự phục hồi của chứng khoán Mỹ, Vn-Index tăng thêm 5,83 điểm (1,68%) và đóng cửa ở 352,07 điểm. Tâm lý dè chừng của nhà đầu tư vẫn còn thường trực trong phiên cuối tuần.

Nối tiếp phiên tăng nhẹ hôm qua, chỉ số chứng khoán sàn TP HCM mở cửa ngày giao dịch lướt nhanh qua mốc 350 khi tổng quỹ được cộng thêm đến 11,51 điểm. Đa số các mã chứng khoán có sự bứt phá về giá, giúp Vn-Index thẳng tiến về phía trước. Thị trường ghi nhận 4,7 triệu cổ phiếu và chứng chỉ quỹ giao dịch, đạt giá trị 142 tỷ đồng.

Với 3 phiên tăng, 2 phiên giảm, Vn-Index chốt tuần giao dịch thứ hai của tháng 11 ở 352,07 điểm. Ảnh: Đ.Q.

Giao dịch sôi động hơn trong đợt khớp lệnh liên tục khi lệnh mua bán dồn dập đưa vào khiến khối lượng khớp được nâng dần. Tuy nhiên, lực cầu dần dần bị sức cung chi phối kéo lùi điểm số Vn-Index. Các mã vừa và nhỏ bị cuốn vào vòng xoáy giảm điểm như ASP, BAS, CAN, DTT... Trong khi những đầu tàu như DPM, STB, VNM, HPG vẫn trụ vững ở bậc tăng sau hai đợt khớp lệnh.

Giao dịch những phút cuối đợt 2 gần như đi ngang, Vn-Index chốt ở 352,62 điểm, cao hơn mốc tham chiếu có 6,38 điểm. Bên mua chưa muốn gom hàng mạnh tay khi những bất ổn của tài chính thế giới vẫn còn đó đồng thời nghe ngóng thêm thông tin trong nước. Bên bán lại đặt hy vọng thị trường sẽ bật dậy tuần sau. Thanh khoản do vậy tiếp tục bị dồn nén khiến khối lượng chứng khoán chuyển nhượng chỉ ở mức xấp xỉ đợt 2 hôm qua, với 11,4 triệu, trị giá 325,2 tỷ đồng.

Ở đợt khớp lệnh cuối, điểm số Vn-Index tiếp tục lùi, nhưng mức hụt không đáng kể, ấn định mức tăng chung cuộc 5,83 điểm. Khối lượng khớp lệnh đạt 13,3 triệu cổ phiếu và chứng chỉ quỹ, tương ứng 380,7 tỷ đồng. Giao dịch thỏa thuận cũng chỉ có thêm 745 nghìn chứng khoán trao tay, khiến tổng khối lượng giao dịch toàn thị trường là 14,1 triệu chứng khoán, giảm nhẹ so với phiên hôm qua, trị giá 447,5 tỷ đồng.

Kết phiên có 100 mã đi lên, 31 cổ phiếu đứng giá tham chiếu và 38 mã giảm điểm. Trong nhóm 10 cổ phiếu có giá trị vốn hóa lớn HOSE, VNM cùng PVD đứng giá, các mã còn lại có mức tăng dao động 0,3 đến 2,5 điểm.

Vẫn dẫn đầu thị trường về khối lượng giao dịch, STB có 2,46 triệu cổ phiếu sang tay, kế đến là SSI (1,4 triệu cổ phiếu). Những blue-chip khác giao dịch dưới 1 triệu cổ phiếu như FPT, HPG, PVF, REE, SAM.

Song hành cùng sự đi lên của Vn-Index, HaSTC-Index chốt phiên cuối tuần đã cộng thêm 2,43 điểm (2,2%), dừng ở 113,07 điểm. Tổng khối lượng giao dịch toàn thị trường đạt 7,9 triệu chứng khoán, tương đương 212,7 tỷ đồng.

Bất kể thông tin bất lợi từ thị trường nhà đất, lao động, và từ các tập đoàn công nghệ, phố Wall tăng điểm mạnh sau phiên 13/11. Riêng Dow Jones, đây là phiên tăng mạnh thứ ba của chỉ số này từ trước đến nay.

Dù thị trường tăng điểm nhưng nhà đầu tư tại phố Wall vẫn chưa thể yên tâm khi những thông tin kinh tế mới công bố đều khá bất lợi. Ảnh: cache.daylife.com

Dow Jones tăng 6,67%, lên mức 8.835,25 điểm. Chỉ số Nasdaq đóng cửa tại 1.596,7 điểm, cao hơn phiên trước 6,5%. Chỉ số Standard & Poor 500 kết thúc phiên tại 911,29 điểm, đi lên 6,92%.

Theo nhận định của ông Matt King, Trưởng Tư vấn Đầu tư tại Bell Investment Advisors, ngay khi Dow Jones xuống gần 8.000 điểm, đã có một làn sóng mua khá lớn đổ vào thị trường. Đây là lần thứ hai phố Wall thử đáy 8.000, đợt test đáy trước diễn ra vào 10/10. Và mẫu hình thị trường hiện tại khá giống với quá trình chứng khoán Mỹ hình thành đáy vào năm 2002 và 2003.

Phố Wall tăng điểm nhưng cùng ngày hàng loạt thông tin bất lợi được công bố. Theo số liệu của Chính phủ, số người Mỹ mới thất nghiệp tuần trước tăng cao nhất kể từ sau cuộc khủng bố 11/9/2001. Bên cạnh đó, số người đang thất nghiệp đã lên mức cao nhất trong 25 năm trở lại đây.

Theo thống kê của Công ty Realty Track, thị trường nhà đất tiếp tục xuống dốc khi trong tháng 10, khi có tới 85 nghìn người bị tịch thu nhà cửa để trả nợ. Bản báo cáo cũng chỉ ra số chủ nhà đất nhận được thông báo tịch biên bất động sản tăng 5% trong tháng 10, và 25% tính từ đầu năm. Realtry Track ước tính có khoảng 936 nghìn ngôi nhà bị tịch biên để trả nợ kể từ tháng 8/2007 tới nay.

Wal-Mart, tập đoàn bán lẻ lớn nhất thế giới, đạt lợi kết quả kinh doanh quý III tốt hơn dự kiến. Tuy nhiên, lợi nhuận của hãng trong quý IV và cả năm có thể bị ảnh hưởng xấu do đôla tăng giá. Triển vọng của các tập đoàn công nghệ cũng không mấy sáng sủa. Nhà sản xuất chip như Intel, Applied Materials, và National Semiconductor cùng thông báo doanh số quý IV sẽ không đạt mức dự tính. Citigroup cũng hạ thấp lợi nhuận ước tính của hai Tập đoàn Sản xuất máy tính Hewlett-Packard (HP) và Dell do nhu cầu sử dụng máy tính toàn cầu sụt giảm.

Cùng ngày, các thị trường lớn tại châu Á mất điểm hàng loạt. Đồng đôla mất giá so với yen cũng như nhu cầu tiêu thụ hàng hóa ngày càng thấp tại Mỹ khiến cổ phiếu của các nhà xuất khẩu lớn chịu ảnh hưởng xấu. Chỉ số Nikkei 225 của Nhật từ đó xuống theo 5,25%.

Chỉ số Hang Seng của Hong Kong và KOSPI của Hàn Quốc mất lần lượt 5,15% và 3,15%. Trái lại, chứng khoán Trung Quốc có phiên tăng khá ấn tượng, chỉ số Shanghai Composite được cộng thêm 3,68%.

Tại châu Âu, ngoại trừ chứng khoán Anh sụt điểm nhẹ, với mức đi xuống 0,31% của FTSE 100, hai thị trường lớn còn lại là Đức và Pháp cùng có một phiên giao dịch thành công. Chỉ số CAC 40 của Pháp và DAX của Đức lần lượt cộng thêm 1,1% và 0,62%.

Theo phương án mà Cục Quản lý Giá (Bộ Tài chính) vừa phê duyệt, giá xăng dầu trên toàn quốc sẽ đồng loạt giảm thêm 1.000 đồng/lít bắt đầu từ ngày 15/11.

Ảnh: Một cây xăng ở Hà Nội. Ảnh ATPvietnam.

Cụ thể, từ ngày 15/11, loại xăng sử dụng phổ biến nhất là A92 sẽ có giá mới 13.000 đồng một lít, xăng A95 giá 13.500 đồng.

Mức giảm 1.000 đồng cũng được áp dụng đối với dầu hỏa, xuống còn 13.500 đồng. Riêng dầu mazut giảm 1.500 đồng xuống còn 9.000 đồng/kg. Dầu diezel loại 0,05S vẫn giữ giá cũ 13.000 đồng.

Như vậy, tính từ đầu tháng 10, đây là lần thứ 6 liên tiếp, giá bán lẻ xăng dầu trong nước được điều chỉnh. Qua 6 đợt (ngày 8, 17, 18, 31/10, 8/11 và 15/11), giá xăng giảm tổng cộng 4.000 đồng một lít.

Quyết định giảm giá bán lẻ được duyệt trong bối cảnh giá dầu thô và cùng với đó là giá xăng thành phẩm giao dịch tại thị trường thế giới liên tiếp giảm mạnh, xuống mức thấp nhất trong vòng hơn 21 tháng trở lại đây.

Việc giảm giá xăng dầu được xem như một trong các biện pháp tích cực có thể giúp kiềm chế lạm phát, kích thích sản xuất và tiêu dùng.

Phương Ly

Ngày 13.11 đánh dấu đà sụt giảm khủng khiếp của giá dầu thế giới. Cụ thể giá dầu thô đã giảm xuống mức chỉ còn trên 55USD/thùng. Đây là mức thấp kỷ lục kể từ năm 2007 đến nay.

"Giá dầu tiếp tục xu hướng quay đầu do những lo ngại về yếu kém của nền kinh tế thế giới. Nhu cầu về dầu đang giảm rất nhanh" - ông Nimit Khamar, chuyên gia dầu lửa tại trung tâm môi giới Sucden ở London cho hay.

Trước diễn biến này, Tổ chức OPEC cho biết có thể tiếp tục cắt giảm sản lượng để ngăn chặn đà giảm của giá dầu. Chủ tịch OPEC Chakib Khelil tuyên bố, việc cắt giảm nguồn cung dầu có thể diễn ra trước cuộc họp OPEC dự kiến diễn ra vào tháng 12 tới tại Oran (Algeria). Cùng với đà sụt giảm của giá dầu thô, các sản phẩm gốc dầu cũng giảm giá mạnh. Tại sàn Singapore, giá xăng A92 chỉ còn trên 49USD/thùng.

Theo các chuyên gia kinh tế, với diễn biến này thì giá bán lẻ xăng dầu trong nước có cơ hội giảm tiếp. Một chuyên gia về giá phân tích: Hiện thuế nhập khẩu xăng dầu đã tăng lên mức 20%, trong khi đó mức thuế tối đa phù hợp với cam kết là 40%. Tuy nhiên, cùng với việc tăng thuế thì DN cũng đã trích 1.000đ/lít xăng và 500đ/lít dầu để bù lỗ ngân sách.

Vì thế, cơ hội giảm giá xăng dầu như một biện pháp kiềm chế lạm phát, kích thích sản xuất và tiêu dùng xem ra là phù hợp. Bên cạnh đó, các chuyên gia kinh tế cũng cho rằng Bộ Công Thương, Bộ Tài chính và các DN cần trở lại xem xét vấn đề lập quỹ bình ổn giá xăng dầu. Việc lập quỹ giúp chính các DN giảm thiểu rủi ro, tăng cường năng lực tài chính khi có biến động.(Nguồn: NLĐ, 14/11)

Thông thường, ba tháng cuối năm là thời điểm thị trường nhà đất sôi động. Lý do là dòng tiền kiều hối đổ về, tâm lý mua sắm của người dân và ngân hàng hay đổ vốn cho vay... Tuy nhiên, năm nay kênh nhà đất càng về cuối năm giá càng giảm và vắng khách.

Theo thống kê thị trường của các đơn vị môi giới có tiếng như Sacomreal, VietRees... thì giá đất nền, căn hộ tiếp tục giảm. Mức giảm có khu vực đã gần 70% so với thời điểm đầu năm. Ghi nhận tại các văn phòng môi giới bất động sản ở đường Trần Não (quận 2, TP.HCM), Lê Văn Lương, Nguyễn Hữu Thọ (quận 7)... cho thấy thời điểm này không có khách hàng giao dịch.

Ông Sơn Văn - trưởng một văn phòng môi giới nhà đất ở đường Hoàng Diệu (quận 4) giải thích mọi năm từ tháng 10 trở đi, khách hàng tìm mua căn hộ, nền đất nườm nượp. Việc mua sắm này xuất phát từ nhu cầu tích góp tài sản có giá trị lớn của người Việt, đồng thời do có một phần tiền người thân ở nước ngoài gửi về. Tuy nhiên, năm nay kinh tế thế giới khó khăn nên lượng kiều hối gửi về hạn chế. Mặt khác, tiền này có về thì người dân cũng dành trả nợ hoặc đem đầu tư cho sản xuất thay vì mua nhà.

Ngoài dòng tiền khó thì tâm lý người mua nhà lúc này đợi giá rớt thêm. Chị Thu Ba - một nhà đầu tư ở quận 7 phân tích, năm ngoái, ba tháng cuối năm, nhà đầu tư vay vốn ngân hàng bơm vào nhà đất. Vì thế, lúc này đang là giai đoạn đáo hạn gay gắt của các hợp đồng. Nên có thể vì xoay sở nguồn vốn trả nợ không kịp mà giới đầu tư buộc phải bán căn hộ ra. Và như vậy giá nhà đất sẽ còn giảm nữa.

Ông Lê Chí Hiếu - Chủ tịch HĐQT Thuduc House nhận định thị trường bất động sản lúc này như khe cửa hẹp. Vừa qua, Ngân hàng nhà nước có văn bản chỉ đạo các ngân hàng cho vay các dự án khả thi. Tuy nhiên, việc chỉ đạo này chỉ mang tính hỗ trợ tinh thần là chính. Vì thực tế, cái cần hiện nay là cho khách hàng cũ vay thêm hoặc bơm vốn cho người có nhu cầu mua nhà thì ngân hàng còn đóng.

Phân tích này rất xác đáng vì ngay Thống đốc Ngân hàng nhà nước Nguyễn Văn Giàu trong cuộc họp với UBND TP.HCM cũng khẳng định chính sách tiền tệ vẫn tiếp tục thắt chặt. Vì dự báo năm 2009, kinh tế vẫn còn khó khăn nên chưa khuyến khích ngân hàng cho vay tiêu dùng, mua sắm.

Thông tin từ các ngân hàng cho biết ba tháng cuối năm cũng chỉ cho vay vào việc thanh toán xuất khẩu, kinh doanh hàng Tết chứ chưa mở lại kênh tiêu dùng. Với việc ngân hàng vẫn còn đóng các khoản vay liên quan đến bất động sản thì chắc chắn thị trường này chưa thể sôi lại như một số nhà đầu tư kỳ vọng.

Tuy nhiên, ở một hướng khác, gần đây các chủ đầu tư đang cố gắng hạ giá thành căn hộ đã mở ra một hướng mới.

Ông Đặng Hồng Anh - Chủ tịch HĐQT Công ty Địa ốc Sacomreal cho biết công ty vừa hạ giá bán căn hộ Phú Mỹ (quận 7) từ 22 triệu đồng/m2 xuống 18 triệu đồng/m2. Có thông tin một số chủ đầu tư khác cũng đang xem xét hạ giá bán sản phẩm nhà đất khi giá thành vật liệu xây dựng giảm. (Nguồn: PLTPHCM, 14/11)

Đóng cửa phiên giao dịch cuối tuần, mặc dù trong giao dịch vẫn còn sự thận trọng của giới đầu tư nhưng mức tăng điểm khá tốt trong phiên hôm nay vẫn mở ra hy vọng mới về đợt hồi phục ngắn hạn của VN-Index.

Tín hiệu tăng điểm trở lại đã xuất hiện từ 2 phiên trước đó và trong ngày hôm qua thị trường mới chính thức đảo chiều trước sức mua tăng lên khá tốt ở một số cổ phiếu lớn.

Đà tăng điểm phiên hôm qua đã tiếp sức cho phiên giao dịch hôm nay, đồng thời yếu tố khá quan trọng là việc nhà đầu tư trong nước đón nhận thông tin tốt lành từ thị trường chứng khoán Mỹ khi kết thúc phiên giao dịch rạng sáng nay (theo giờ VN), thị trường này đã bật mạnh trở lại.

Mở cửa phiên giao dich, xu hướng tăng giá mạnh được thể hiện khi cổ phiếu ồ ạt tăng giá, VN-Index kết thúc đợt 1 cũng tăng mạnh 11,51 điểm (tương đương tăng 3,32%) lên 357,75 điểm. Khối lượng giao dịch trong đợt 1 cũng tăng mạnh với hơn 4,7 triệu chứng khoán được giao dịch, giá trị là 142,425 tỷ đồng.

Tuy nhiên trong phần lớn thời gian khớp lệnh liên tục, sức tăng của VN-Index đuối sức khi hưng phần giới đầu tư trong đầu phiên có phần giảm xuống trước sức ép bán ra vẫn khá lớn.

Do vậy, kết thúc đợt 2 chỉ số VN-Index chỉ còn tăng 6,38 điểm (tương đương tăng 1,84%) lên 352,62 điểm.

Sự thận trọng trong giao dịch đợt 2 đã khiến giao dịch không mấy tăng mặc dù đợt 1 giao dịch tăng khá mạnh. Cụ thể, sau đợt này chỉ có gần 11,5 triệu chứng khoán được chuyển nhượng với giá trị là 325,23 tỷ đồng.

Đợt 3 cũng là đợt VN-INdex tăng ít điểm nhất, và kết thúc đợt này cũng là đóng cửa thị trường, chung cuộc VN-Index tăng tiếp 5,83 điểm (tương đương tăng 1,68%) lên 352,07 điểm.

Như vậy sau một tuần giao dịch với 3 phiên tăng điểm và 2 phiên giảm điểm nhưng chỉ số VN-Index vẫn mất 13,9 điểm (tức giảm 3,8%) so với mức đóng cửa cuối tuần trước do 2 phiên giảm điểm trong tuần khá mạnh.

Khối lượng khớp lệnh của cổ phiếu và chứng chỉ quỹ phiên này tăng không đáng kể so với phiên hôm qua khi chỉ có gần 13,4 triệu đơn vị được giao dịch với giá trị là 380,78 tỷ đồng (phiên trước đó là 13,34 triệu đơn vị và giá trị là 367,73 tỷ đồng).

Số cổ phiếu tăng giá phiên này chiếm đa số với 60% số mã niêm yết tăng giá. Cụ thể, trong tổng số 165 mã cổ phiếu và 4 chứng chỉ quỹ niêm yết đã có 100 mã tăng giá (trong đó 21 mã tăng giá trần), 38 mã giảm giá (với 12 mã giảm sàn), còn lại là 31 mã giữ mức tham chiếu.

Nhóm cổ phiếu Blue-chips tiếp tục hỗ trợ thị trường khá tích cực khi trong nhóm 10 cổ phiếu vốn hoá lớn nhất sàn không có mã nào giảm giá, ngoài 2 mã đứng mức tham chiếu là VNM của Vinamilk và PVD của PV Drilling.

Nhóm này có 2 mã tăng giá trần là PVF của Tài chính Dầu khí (+900 đồng lên 20.800 đồng/cp) và FPT của CTCP Phát triển Đầu tư Công nghệ FPT (+2.500 đồng lên 60.000 đồng/cp). Các mã tên tuổi khác như STB của Sacombank, SSI của Chứng khoán Sài Gòn, DPM của Đạm Phú Mỹ, VIC của Vincom, HPG của Hoà Phát...cũng có mức tăng cần thiết hỗ trợ thị trường.

Nhóm giảm giá trong đó có một số mã mới lên sàn gần đây như OPC của Dược phầm OPC, BAS của CTCP BASA, KSH của Khoáng sản Hà Nam. Chịu mức giảm giá mạnh nhất phiên là IMP của Imexpharm (-3.500 đồng), sau đó là OPC (-1.900 đồng), TMS của Trasimexx SaiGon (-1.800 đồng), BT6 của Bê Tông Châu Thới (-1.500 đồng)...

Về khối lượng giao dịch, STB vẫn vững vàng ngôi đầu và vượt trội hơn cả (2,46 triệu cp), sau đó là SSI (1,41 triệu cp), PVF (0,62 triệu cp), FPT (0,6 triệu cp), SAM (0,51 triệu cp), REE (0,39 triệu cp)...

Chi tiết giao dịch ngày 14/11:
(Đơn vị giá: 1.000đ; Đơn vị KL: 1 CP)

Mã CK

Giá cao nhất

Giá thấp nhất

Giá đóng cửa

Thay đổi

%Thay đổi

Khối lượng

ABT

28.1

27.4

28

1

3.70

14,370

ACL

29.8

28.5

29

0.5

1.75

19,720

AGF

17.8

17

17.1

0.1

0.59

7,400

ALP

9.8

9.5

9.5

0

0.00

26,640

ALT

24.1

23.3

24.1

0.8

3.43

1,200

ANV

24.2

23.2

23.5

0.3

1.29

166,500

ASP

11

10.6

10.7

-0.1

-0.93

13,920

BAS

12.5

12.5

12.5

-0.6

-4.58

1,070

BBC

15.7

15.1

15.4

0.4

2.67

46,290

BBT

5.9

5.9

5.9

0.1

1.72

27,650

BHS

14.4

13.6

14

0.2

1.45

6,280

BMC

78.5

78.5

78.5

3.5

4.67

61,920

BMI

19.4

18.6

18.6

0

0.00

17,930

BMP

35.6

32.6

35.5

1.5

4.41

35,560

BPC

12.3

11.9

12

0.2

1.69

990

BT6

56

54

54.5

-1.5

-2.68

1,020

BTC

26

24.5

26

1.2

4.84

4,000

CAN

12.7

12

12

-0.4

-3.23

7,680

CII

29

27

28

0

0.00

7,230

CLC

17.7

17.7

17.7

0.8

4.73

720

CNT

12.1

11.7

11.7

-0.1

-0.85

1,900

COM

34.9

33.4

33.4

0.1

0.30

5,030

CYC

12.3

12

12.3

0.4

3.36

26,160

DCC

12.2

11.5

12

0.1

0.84

14,760

DCL

35.5

35.2

35.2

0.2

0.57

26,950

DCT

9.7

9.4

9.6

0.2

2.13

11,610

DDM

16.6

16

16.6

0.7

4.40

130,240

DHA

21.3

21

21

0.5

2.44

11,100

DHG

116

113

116

5

4.50

25,150

DIC

16.9

16.4

16.5

0.1

0.61

23,620

DMC

56

55

56

1.5

2.75

14,420

DNP

10.6

10.3

10.3

0

0.00

10,200

DPC

11.6

11.6

11.6

-0.6

-4.92

2,000

DPM

42.9

41.5

42.1

1.1

2.68

312,370

DPR

37.7

36

36

-0.9

-2.44

56,680

DQC

19

19

19

0.9

4.97

23,740

DRC

23

21.4

21.5

-0.5

-2.27

41,830

DTT

11

10.5

11

0

0.00

20,430

DXP

26.3

25.3

25.5

0

0.00

21,300

DXV

8.5

8.1

8.1

0

0.00

10,050

FBT

16.2

16.2

16.2

0.7

4.52

6,660

FMC

12.6

12

12

0

0.00

37,790

FPC

19

19

19

-1

-5.00

930

FPT

60

58.5

60

2.5

4.35

597,610

GIL

16.3

15.8

15.8

-1.1

-6.51

21,560

GMC

15.9

15.5

15.8

0.3

1.94

1,250

GMD

37.8

36

36

0

0.00

114,310

GTA

9.4

9

9

0

0.00

5,220

HAP

22.2

21.6

21.7

0.1

0.46

42,600

HAS

12.4

11.7

11.8

-0.2

-1.67

6,420

HAX

16.1

16.1

16.1

0.7

4.55

660

HBC

18.9

18

18.5

-0.3

-1.60

56,040

HBD

11.5

10.8

11

0

0.00

1,950

HDC

24.5

24

24.1

0.4

1.69

12,230

HLA

20.9

19.1

20

0

0.00

57,300

HMC

14.2

13.8

14.2

0.5

3.65

25,360

HPG

34

32.5

33.2

0.7

2.15

336,790

HRC

32.5

32

32.5

0.9

2.85

93,820

HSI

12.7

12.1

12.7

0.3

2.42

7,950

HT1

14.5

14

14.3

0.3

2.14

10,790

HTV

10.3

10

10

-0.1

-0.99

14,420

ICF

9

8.5

8.8

0.2

2.33

14,440

IFS

9.1

9

9

0

0.00

990

IMP

75

68.5

68.5

-3.5

-4.86

14,910

ITA

31.6

30.8

31.5

1.4

4.65

196,080

KDC

30.6

29.3

29.7

0.3

1.02

216,140

KHA

14.6

14.4

14.4

0

0.00

49,960

KHP

11.3

11.1

11.3

0.4

3.67

35,090

KMR

7.2

7

7.2

0.2

2.86

100,000

KSH

18.1

18.1

18.1

-0.9

-4.74

50

L10

12.7

12.3

12.4

0.1

0.81

4,550

LAF

11.9

11.9

11.9

0.5

4.39

60,410

LBM

19.9

19.2

19.9

0.9

4.74

108,740

LGC

17

16

16.5

0.2

1.23

830

LSS

16

15.6

15.7

0.1

0.64

11,610

MAFPF1

4.3

4.1

4.1

-0.2

-4.65

35,240

MCP

16.9

16.5

16.5

0.1

0.61

5,250

MCV

11.5

11.2

11.4

0.2

1.79

40,010

MHC

10.5

10

10.4

0.4

4.00

75,620

MPC

12.4

12.4

12.4

0.5

4.20

32,910

NAV

13.2

13

13

0

0.00

8,460

NHC

43.6

42.7

42.7

0.5

1.18

2,170

NKD

33.3

31.9

32

0

0.00

3,330

NSC

27.9

27

27.9

0

0.00

8,670

NTL

41

38.6

39

-0.3

-0.76

74,320

OPC

39

36.5

36.5

-1.9

-4.95

81,310

PAC

41.4

40.5

40.5

-0.9

-2.17

17,810

PET

18

17.5

17.6

0.2

1.15

133,870

PGC

12.2

11.5

11.6

-0.2

-1.69

46,790

PIT

15

14.3

14.4

0.1

0.70

21,870

PJT

12.7

12.5

12.7

0.6

4.96

22,120

PMS

18.9

17.6

18.8

0.7

3.87

3,460

PNC

10.5

10.5

10.5

0.5

5.00

3,380

PPC

24.5

23.8

24.2

0.3

1.26

186,820

PRUBF1

4.3

4.1

4.2

0.1

2.44

65,380

PVD

75.5

72

72

0

0.00

203,000

PVF

20.8

20.2

20.8

0.9

4.52

623,070

PVT

18.4

18.2

18.3

0.1

0.55

125,650

RAL

29.7

29

29

-0.5

-1.69

9,600

REE

25

24.2

25

0.6

2.46

393,830

RHC

20.4

19.5

20.4

0.5

2.51

12,060

RIC

19.2

17.8

19

0.3

1.60

41,050

SAF

19.6

18.4

19.6

0.8

4.26

1,810

SAM

17.8

17.2

17.6

0.4

2.33

513,620

SAV

13.4

13

13

-0.3

-2.26

13,310

SBT

9.9

9.6

9.8

0.1

1.03

181,180

SC5

29.7

28.5

29.5

0.5

1.72

34,730

SCD

16.6

16.1

16.6

0.6

3.75

1,530

SDN

17.3

15.9

15.9

-0.6

-3.64

850

SFC

36

36

36

1

2.86

10

SFI

48.7

47

47.9

1.3

2.79

26,510

SFN

11

10.3

10.8

0

0.00

4,120

SGC

13

12.6

13

0

0.00

1,800

SGH

80

80

80

0

0.00

710

SGT

25.9

24.8

25.4

0.6

2.42

36,930

SHC

27.4

25.6

25.6

-1.3

-4.83

6,810

SJ1

16

16

16

0.3

1.91

10

SJD

14.9

14.5

14.5

0

0.00

17,470

SJS

74.5

73.5

74.5

3.5

4.93

337,470

SMC

22.6

22

22.3

0.5

2.29

14,140

SSC

22.4

21.4

21.4

0

0.00

1,330

SSI

36.2

34.8

35.1

0.3

0.86

1,410,470

ST8

27.5

26.5

27.5

1.3

4.96

4,420

STB

24

23.4

23.6

0.5

2.16

2,465,090

SZL

56.5

55.5

56

0

0.00

15,100

TAC

29.6

28.5

29

-0.6

-2.03

210,370

TCM

10.6

10.6

10.6

0.5

4.95

25,450

TCR

10.4

10.2

10.4

0.3

2.97

5,960

TCT

90

88

88

1

1.15

3,790

TDH

36

34.5

34.5

-0.5

-1.43

170,430

TMC

24.1

23.5

24.1

1.1

4.78

13,090

TMS

39.6

36

36

-1.8

-4.76

3,450

TNA

18.2

17.4

17.5

-0.1

-0.57

6,480

TNC

10.8

10.3

10.5

0.2

1.94

29,070

TPC

8.9

8.5

8.7

0.2

2.35

57,360

TRC

33.5

32.1

32.5

-0.5

-1.52

46,210

TRI

10

9.5

9.5

-0.4

-4.04

171,930

TS4

10.1

9.7

10.1

0.4

4.12

34,950

TSC

48.3

47

47.1

1.1

2.39

26,160

TTC

10.2

9.6

10

-0.1

-0.99

14,540

TTF

16.8

16.2

16.2

-0.5

-2.99

7,730

TTP

20.9

20

20.3

-0.1

-0.49

19,220

TYA

14.4

13.4

13.9

0.1

0.72

141,700

UIC

11.8

11.4

11.7

0.4

3.54

18,040

UNI

15.9

15.8

15.9

0.7

4.61

26,650

VFC

9.6

9.4

9.4

-0.1

-1.05

14,590

VFMVF1

9.2

9

9.1

0

0.00

160,100

VFMVF4

5.1

5

5.1

0.1

2.00

42,170

VGP

23.2

21.2

23.2

0.9

4.04

1,310

VHC

20.9

19.2

19.2

-1

-4.95

44,100

VHG

9.3

8.8

8.8

-0.4

-4.35

23,370

VIC

80

78

78

1

1.30

18,700

VID

10

9.8

10

0.2

2.04

27,170

VIP

12.8

12.4

12.6

0.2

1.61

364,660

VIS

24.4

24

24.3

0.7

2.97

33,770

VKP

8.3

8.2

8.3

0.1

1.22

17,590

VNA

21.4

20.5

21

0.6

2.94

167,040

VNE

8.1

7.9

8

0

0.00

81,620

VNM

89

86.5

86.5

0

0.00

42,780

VNS

20

19.5

19.8

-0.2

-1.00

51,230

VPK

8.8

8.7

8.7

0

0.00

3,860

VPL

99

98

98.5

1.5

1.55

69,000

VSC

63

61

61

0

0.00

5,250

VSG

13.5

13.4

13.4

0

0.00

10,960

VSH

28.2

27.6

27.9

0.9

3.33

90,710

VTA

8.1

7.8

7.8

-0.3

-3.70

17,530

VTB

15.3

14.4

15.3

0.3

2.00

8,880

VTC

11.7

11.1

11.7

0.4

3.54

4,970

VTO

14.2

13.7

13.9

0

0.00

170,090

ATPVietnam