Vn-Index nhanh chóng thủng đáy 366,02

Thursday, October 23, 2008 |

Cộng hưởng cùng sự đi xuống của chứng khoán thế giới, Vn-Index phiên sáng nay đã chính thức xuyên thủng đáy cũ 366,02, sau khi tuột dốc mạnh 14,48 điểm (3,86%), chỉ còn 360,43 điểm, mức thấp nhất trong hơn 2 năm qua.

Tâm lý thận trọng tiếp tục ngự trị ở bên bán lẫn bên mua trong đợt giao dịch đầu tiên, khi lượng cầu sụt giảm, nhưng lượng cung cũng không tỏ ra vượt trội. Tuy nhiên, xét trên tổng thể, nhu cầu xả hàng vẫn chiếm lĩnh bảng điện tử, khiến chỉ số chứng khoán sàn TP HCM chỉ sau nửa giờ giao dịch đã xuyên thủng đáy cũ 366,02 điểm của ngày 20/6, chỉ còn 361,21 điểm.

Sau 2 tuần ngấp nghé, Vn-Index đã chọc thủng đáy cũ 366,02 điểm của ngày 20/6. Ảnh: H.P.

Như vậy, sau hơn 2 tuần liên tục ngấp nghé mức nhạy cảm này, Vn-Index sau đợt 1 đã chính thức phá đáy cũ mà không gặp một lực kháng cự nào ngăn lại. Sự lưỡng lự từ cả hai bên mua và bán khiến khối lượng và giá trị mua bán ở mức nhỏ giọt, với 3,2 triệu chứng khoán sang tay, tương đương 96,2 tỷ đồng.

Sang đợt khớp lệnh liên tục, giao dịch ngày càng có chiều hướng đi xuống mạnh, lượng cầu tăng lên đè bẹp khả năng quay đầy hay ít ra tốc độ rơi của Vn-Index hãm xuống. Trên bảng điện tử phủ đầy sắc đỏ, ITA, TDH cùng khoảng 5 mã vừa và nhỏ khác trở thành điểm sáng của phiên với sức cầu mạnh hơn cung và nghiễm nhiên đứng ở bậc tăng điểm. Hầu hết những mã còn lại, trong đó có những tên tuổi lớn như DPM, STB, SSI, HPG... đều chịu cảnh giảm sàn, nhấn chìm Vn-Index xuống khỏi mốc 360, chỉ còn 359,58 điểm. Có tổng cộng 11,5 triệu chứng khoán chuyển nhượng, đạt giá trị 347,2 tỷ đồng.

Như vậy, những thông tin từng được mong chờ sẽ là động lực đẩy Vn-Index sải dài những mốc mới, như tốc độ tăng của lạm phát hãm lại, lãi suất cơ bản giảm... đã không khỏa lấp được nỗi bấp bênh trong tâm lý nhà đầu tư, khi thị trường tài chính thế giới vẫn còn đó những khó khăn.

Thạc sĩ Lâm Minh Chánh, Tổng giám đốc công ty chứng khoán Đại Việt chia sẻ với nhà đầu tư tại buổi hội thảo chiều ngày 23/10 rằng, tâm lý nhà đầu tư hiện đang phụ thuộc nhiều vào chỉ số Down Jones của thị trường Mỹ. Độ tương quan giữa chỉ số này với Vn-Index lên đến gần 90% tính từ đầu tháng 9 đến nay, trong khi vào giữa cuối tháng 7 đến hết tháng 8, sự tương thích rất nhỏ bé với khoảng 6%.

Giới chuyên gia cho rằng, xu thế ngắn hạn của thị trường vẫn là đi xuống khi nhà đầu tư dường như bội thực thông tin tốt từ trong nước nhưng lại bấu víu vào diễn biến thị trường tài chính thế giới.

Đợt khớp lệnh cuối nhanh chóng trôi qua trong xu thế ảm đạm, mua ít bán nhiều, ấn định mức điểm chung cuộc 360,43, mức thấp nhất kể từ đầu năm 2006. Nhu cầu mua sụt giảm khiến khối lượng giao dịch khớp lệnh ở mức thấp, với 12,7 triệu cổ phiếu và chứng chỉ quỹ. Cộng thêm 747.270 chứng khoán trao tay qua giao dịch thỏa thuận cũng chỉ nâng tổng khối lượng toàn thị trường lên 13,5 triệu chứng khoán, tương đương 408,2 tỷ đồng.

Kết phiên có chưa đầy 10 mã đi lên, mức tăng mạnh nhất phiên thuộc về ITA, với 1,6 điểm. Riêng nhóm 10 cổ phiếu có mức vốn hóa lớn nhất sàn HOSE đều giậm chân ở mức giá sàn. STB đứng đầu thị trường về khối lượng giao dịch, với gần 2 triệu cổ phiếu, kế đến là DPM (809.310 cổ phiếu), ITA (534.290 cổ phiếu).

Màu đỏ tiếp tục bao phủ đã đẩy HaSTC-Index của sàn Hà Nội lùi về 115,34 điểm, mất đi 7,71 điểm (6,27%). Tổng khối lượng giao dịch toàn thị trường đạt 8,3 triệu chứng khoán, tương đương 258 tỷ đồng.

Vn-Index liên tiếp đi xuống dù báo cáo kinh doanh của nhiều doanh nghiệp niêm yết khả quan, xăng đã giảm giá 2 lần và lãi suất cơ bản đã hạ. Tiền trong "túi" vẫn dư dả, nhưng nhà đầu tư đang nhất nhất đợi những dấu hiệu khả quan mới "nhảy" lại vào thị trường.

Ngay khi nghe phong thanh về khả năng giảm giá xăng, một nhà đầu tư tại TP HCM đọc khắp các báo, hỏi han bạn bè liệu khả năng điều chỉnh giá có cao không, mức giảm là bao nhiêu. Nhưng sau 2 lần giảm, mỗi lần nhỏ giọt 500 đồng, anh này vẫn án binh bất động. Khi lãi suất cơ bản giảm từ 14% xuống 13%, anh cũng tỏ ra dửng dưng, vì cho rằng vẫn chưa đến lúc trở lại thị trường.

Nhà đầu tư Trần Tiến Dũng tại sàn Sacombank (SBS) Hà Nội cũng cho biết, nhiều bạn bè của anh vẫn dư dả vốn, nhưng "găm" tiền trong tài khoản, với tỷ lệ 60% án binh bất động, 40% còn lại tranh thủ lướt sóng trong vài phiên. "Phần nhiều họ vẫn chưa yên tâm để mua bán, nên để tiền lại, khi nào thấy thị trường khả quan thì tính tiếp", anh Dũng cho hay. Một số người thì tiếp tục chia sẻ vốn sang vàng và ngoại tệ.

Kết thúc phiên hôm nay, Vn-Index chỉ còn 360,43 điểm. Ảnh: Hoàng Hà

Theo Ths. Đỗ Ngọc Linh, Ban Chiến lược và Phát triển dịch vụ thuộc Công ty CP Chứng khoán Dầu khí (PVS), tâm lý nhà đầu tư không ổn định, khiến Vn-Index chưa thể gượng dậy, dù đã có những yếu tố khả quan của kinh tế vĩ mô. "Các nhà đầu tư hiện vẫn chăm chú vào diễn biến trên thị trường thế giới mà quên đi những yếu tố nội tại của thị trường chứng khoán Việt Nam", ông Linh nhận định.

Nhà đầu tư Trần Tiến Dũng xác nhận, phần nhiều nhà đầu tư vẫn quan tâm đến diễn biến thị trường thế giới cũng như động thái của khối ngoại. "Nhà đầu tư cá nhân thường làm theo quỹ trong nước, còn các quỹ này lại "nhìn" vào nhà đầu tư nước ngoài", anh Dũng nhận xét. Việc khối ngoại bán ròng trong những ngày đầu tháng vì thế càng tác động đến nhà đầu tư trong nước.

Mặt khác, đến thời điểm này, mới có khoảng 30% doanh nghiệp niêm yết công bố báo cáo kinh doanh. Nhiều người dự báo trong bối cảnh kinh tế không thuận lợi, kết quả của những công ty công bố về sau sẽ khó có thể tốt như các blue-chip.

Ông Nguyễn Ngọc Linh cho rằng, không phải tất cả doanh nghiệp có kết quả như mong muốn, và một số đã phải giảm chỉ tiêu kế hoạch do khó khăn. Nhưng vẫn có khả năng nhiều doanh nghiệp công bố báo cáo kinh doanh về sau vẫn có kết quả khả quan. "Đây là dấu hiệu tốt, góp phần vực dậy thị trường trước những sóng gió hiện tại từ cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ và châu Âu", ông Linh nhận định.

Cùng quan điểm này, nhà đầu tư Dũng nhận định, trong vài phiên tới, có khả năng thị trường sẽ khởi sắc, do giới đầu tư thấy rõ nét hơn việc lãi suất tiết kiệm giảm, khiến dòng vốn có dịch chuyển nhất định.

Anh Dũng cũng cho hay, ngay trong lúc thị trường sụt giảm mạnh, nhà đầu tư có cơ hội đánh giá chính xác về tiềm lực cũng như bộ máy lãnh đạo của các doanh nghiệp niêm yết. "Vào lúc này, một trong những tiêu chí để lựa chọn cổ phiếu là những gương mặt lãnh đạo doanh nghiệp", nhà đầu tư này cho biết thêm.

Chứng khoán Mỹ một lần nữa lao dốc vào hôm qua 22/10, với mức giảm trên 500 điểm của chỉ số Dow Jones. Phiên giảm trên là kết quả của lợi nhuận quý III yếu kém từ nhiều tập đoàn, cũng như dầu sụt giá khiến nỗi lo suy thoái thêm trầm trọng.

Kết thúc phiên, Dow Jones một lần nữa rơi xuống dưới 9.000 điểm, đóng cửa tại 8.519,21 điểm, thấp hơn phiên trước 5,69%. Chỉ số Nasdaq hiện chỉ còn 1.615,75 điểm, bị trừ 4,77%. Chỉ số Standard & Poor 500 chốt tại 896,78 điểm, mất 6,1%.

Trang web bán lẻ hàng đầu thế giới Amazon.com thông báo lợi nhuận quý đạt mức dự đoán. Tuy nhiên, hãng cho biết doanh thu năm 2008 sẽ không đạt kế hoạch do tình hình làm ăn trong quý IV được dự đoán rất khó khăn.

Do khủng hoảng tài chính, Ngân hàng Wachovia vừa thông báo khoản lỗ khổng lồ lên tới 24 tỷ đôla trong quý III, trong khi cùng kỳ năm ngoái, ngân hàng này vẫn còn có lãi. Tập đoàn Boeing, một thành phần của chỉ số Dow Jones, tuy có lợi nhuận nhưng mức lãi thấp hơn dự kiến. Một loạt các tập đoàn khác như AT&T, Merck cùng có kết quả không như ý khi có lợi nhuận hoặc doanh thu không đạt mức kỳ vọng của giới phân tích.

Phố Wall vừa có thêm một ngày lao dốc. Ảnh: Reuters

Theo các chuyên gia, kết quả kinh doanh nghèo nàn của các công ty là điều đã được dự đoán. Tuy nhiên, một số doanh nghiệp hàng đầu có kết quả tồi hơn cả trù tình của giới phân tích đã khiến diễn biến của thị trường chứng khoán trở nên xấu đi.

Giá dầu giao sau cho tháng 11 giảm 5,43 đôla xuống mức 66,75 đôla một thùng, mức thấp nhất trong 16 tháng trở lại đây. Giá loại nhiên liệu này đi xuống chịu tác động lớn từ hoạt động đầu cơ cũng như dự đoán về sự suy giảm nhu cầu sử dụng năng lượng trên toàn thế giới do kinh tế xuống dốc. Tương tự như dầu, xăng tại Mỹ mất giá ngày thứ 35 liên tiếp, giảm 3,1 cent xuống chỉ còn 2,858 đôla một gallon (3,78 lít).

Cổ phiếu dầu mỏ, kim loại, và khai khoáng ngập trong sắc đỏ với sự góp mặt của một số cái tên như Chevron, Exxon Mobil, và Alcoa.

Dẫu sao, giới kinh doanh vẫn có lý do để vui mừng khi lãi suất cho vay giữa các ngân hàng tiếp tục được cải thiện.

Tại thị trường tín dụng, lãi suất Libor qua đêm giữa các ngân hàng xuống 0,16%, hiện ở mức 1,28%. Libor thời hạn 3 tháng sau ngày hôm qua giảm từ 3,83% xuống còn 3,54%. Thị trường cho vay liên ngân hàng dần được nới lỏng là tín hiệu tốt giúp ổn định khối tài chính cũng như kích thích các hoạt động tiêu dùng và mở rộng sản xuất kinh doanh.

Ông Ned Riley, Nhà Chiến lược Đầu tư tại Riley Asset Management, cho biết biến động của chứng khoán hiện ít phụ thuộc vào yếu tố cơ bản. Theo ông, những phiên với biên độ lớn bất thường như vừa qua chịu tác động lớn bởi những nhà đầu cơ.

Vàng giảm 24,1 đôla, kết thúc ngày giao dịch tại 743,9 đôla một ounce.

Tại châu Á, chỉ số Nikkei 225 của Nhật giảm 6,79%. Trong đó nhóm cổ phiếu ngân hàng như Mizuho, Mitsubishi, Sumitomo hay các nhà xuất khẩu như Honda, Sony, và Toyota dẫn đầu xu hướng giảm của thị trường. Đồng won tiếp tục mất giá là nguyên nhân chính khiến chứng khoán Hàn Quốc tiếp tục chìm sâu trong khủng hoảng khi mất thêm 5,14% xuống mức gần thấp nhất trong ba năm qua. Chỉ số Hang Seng của Hong Kong và Shanghai Composite của Trung Quốc thấp hơn phiên trước lần lượt 5,15% và 3,2%.

Chứng khoán châu Âu, cả ba thị trường lớn đều sụt giảm mạnh. Chỉ số FTSE 100 của Anh và DAX của Đức cùng chia sẻ mức điểm trừ 4,46%. Chỉ số CAC 40 của Pháp thậm chí còn lùi sâu hơn khi giảm tới 5,1%.

Tiếp tục chịu ảnh hưởng mạnh từ những diễn biến xấu trên thị trường chứng khoán thế giới, sàn GDCK Tp Hồ Chí Minh đã chứng kiến phiên giao dịch đỏ sàn với 90% số mã cổ phiếu niêm yết giảm giá và hầu hết đều giảm sàn.


Trước giờ mở cửa, thông tin về việc thị trường chứng khoán Mỹ tiếp tục giảm mạnh trong khi đó trên thị trường chứng khoán Châu Á tại thời điểm này cũng đang ảm đạm với các chỉ số chứng khoán của các thị trường lớn đều giảm trên dưới 4%.

Ngay đợt giao dịch đầu tiên xác định giá mở cửa đã hé mở phiên giao dịch giảm mạnh của chỉ số VN-Index khi kết thúc đợt 1, chỉ số này giảm ngay 13,7 điểm (tương đương giảm 3,65%) xuống còn 361,21 điểm.

Khối lượng giao dịch trong đợt 1 có tăng nhẹ nhưng cũng chưa thể hiện được nhiều với hơn 3,2 triệu đơn vị được giao dịch, giá trị là 96,274 tỷ đồng.

Đợt khớp lệnh liên tục diễn ra trong xu hướng một chiều, khối lượng đặt bán kín trên bảng điện tử trong khi sức cầu có hạn trước sự giảm mạnh của thị trường. Vn-Index tiếp tục tụt dốc khi để mất 15,33 điểm (tức giảm 4,08%) xuống 359,88 điểm. Khối lượng giao dịch sau đợt này đạt hơn 11,5 triệu đơn vị với giá trị là 347,243 tỷ đồng.

Với xu hướng thị trường được xác định từ khá sớm thì 15 phút cuối của đợt khớp lệnh xác định giá đóng cửa VN-Index đã chính thức phá đáy 366 điểm được thiết lập hôm 20/6. Cụ thể, chung cuộc chỉ số VN-Index giảm 14,48 điểm (tương đương giảm 3,86%) xuống còn 360,43 điểm.

Như vậy sau khi, VN-Index xuống sát ngưỡng 360 điểm thì đây cũng là mức điểm thấp nhất trong hơn 2 năm rưỡi qua. Và so với mức điểm cao nhất mà chỉ số này đạt được trong tháng 3/2007 (1.170,67 điểm) thì đến thời điểm này, VN-Index đã giảm 810,24 điểm (tức là đã giảm 69,2%).

Tổng khối lượng cổ phiếu và chứng chỉ quỹ được khớp lệnh thành công phiên này có tăng hơn phiên trước đó với 12,78 triệu đơn vị được khớp lệnh với giá trị là 376,38 tỷ đồng. Như vậy đã tăng 26% về khối lượng và tăng 29% về giá trị (so với hơn 10 triệu đơn vị với giá trị 292,8 tỷ đồng phiên hôm qua).

Sắc đỏ phủ khắp bảng điện tử khi trong tổng số 160 mã cổ phiếu và 4 chứng chỉ quỹ niêm yết chỉ có 8 mã tăng giá (với 2 mã tăng trần), 9 mã giữ mức tham chiếu, còn lại là 147 mã giảm giá (trong đó có 126 mã giảm giá sàn).

Nhóm 10 cổ phiếu có mức vốn hoá lớn nhất trừ VIC của Vincom và VPL của Du lịch Thương mại Vinpearl cùng giảm nhẹ 500 đồng xuống tương ứng 82.000 đồng/cp và 95.000 đồng/cp thì các mã còn lại đều xuống giá sàn.

Các mã giảm sàn nhóm này là: DPM của Đạm Phú Mỹ (-2.500 đồng xuống 49.000 đồng/cp), VNM của Vinamilk (-4.000 đồng xuống 77.000 đồng/cp), PVD của PV Drilling (-4.000 đồng xuống 79.000 đồng/cp), FPT của CTCP đầu tư phát triển Công nghệ FPT (-3..500 đồng xuống 73.000 đồng/cp), STB của Sacombank (-1.100 đồng xuống 20.900 đồng/cp)...

Trong khi đó, số ít mã tăng giá đáng chú ý có ITA của CTCP Đầu tư-Công nghiệp Tân Tạo và MCP của Bao bì Mỹ Châu tăng trần từ đầu phiên với dư bán không còn khi kết thúc giao dịch. Ngoài ra còn có TDH của Nhà Thủ Đức, TTC của Gạch men Thanh Thanh, PNC của Văn hoá Phương Nam, VTC của Viễn thông VTC, BPC của Bao bì Bỉm Sơn.

Về khối lượng được khớp của các cổ phiếu, STB đứng đầu (1,94 triệu cp), DPM (0,8 triệu cp), ITA (0,53 triệu cp), VTO (0,5 triệu cp), FPT (0,42 triệu cp), SSI (0,41 triệu cp), PPC (0,4 triệu cp), VNM (0,39 triệu cp), SAM (0,35 triệu cp)...

Chi tiết giao dịch ngày 23/10:
(Đơn vị giá: 1.000đ; Đơn vị KL: 1 CP)

Mã CK

Giá cao nhất

Giá thấp nhất

Giá đóng cửa

Thay đổi

%Thay đổi

Khối lượng

ABT

29.5

29.5

29.5

-1.5

-4.84

33,680

ACL

37.5

35.7

35.7

-1.8

-4.80

29,450

AGF

20.4

19.8

19.8

-1.0

-4.81

11,870

ALP

11

10.8

10.8

-0.5

-4.42

37,390

ALT

29.3

26.7

26.7

-1.4

-4.98

910

ANV

23.6

23.6

23.6

-1.2

-4.84

13,140

ASP

12.3

12

12

-0.5

-4.00

55,480

BBC

15.8

15.8

15.8

-0.8

-4.82

79,830

BBT

7

7

7

-0.3

-4.11

56,080

BHS

15

14.4

15

0.0

0.00

13,470

BMC

85.5

85.5

85.5

-4.0

-4.47

6,100

BMI

19.4

19.4

19.4

-1.0

-4.90

3,580

BMP

36

35.8

35.8

-1.8

-4.79

11,250

BPC

12.5

11.5

12.5

0.4

3.31

12,510

BT6

56

53.5

56

0.0

0.00

7,080

BTC

28.5

28.5

28.5

-1.5

-5.00

10

CAN

12.4

11.8

12

-0.4

-3.23

32,980

CII

25.7

25.7

25.7

-1.3

-4.81

41,810

CLC

17

16.8

16.8

-0.6

-3.45

2,800

CNT

13.9

13.9

13.9

-0.7

-4.79

26,780

COM

32.2

30.6

32.2

0.0

0.00

2,100

CYC

16.4

16.4

16.4

-0.8

-4.65

5,750

DCC

12.3

11.7

11.7

-0.6

-4.88

24,590

DCL

51

50.5

50.5

-2.5

-4.72

24,540

DCT

10.5

10.3

10.3

-0.5

-4.63

54,630

DDM

17.9

17.1

17.1

-0.8

-4.47

73,480

DHA

20.8

20.5

20.5

-1.0

-4.65

55,500

DHG

112

109

109

-5.0

-4.39

38,340

DIC

17.3

17.3

17.3

-0.9

-4.95

52,120

DMC

57

57

57

-3.0

-5.00

38,550

DNP

10.8

10.7

10.7

-0.5

-4.46

8,950

DPC

12.5

11.9

12.5

0.0

0.00

7,820

DPM

50.5

49

49

-2.5

-4.85

809,310

DPR

42.5

42.5

42.5

-2.2

-4.92

21,960

DQC

19.1

19.1

19.1

-1.0

-4.98

24,980

DRC

24

23.8

23.8

-1.2

-4.80

9,920

DTT

11.7

11.2

11.2

-0.5

-4.27

16,100

DXP

29

27.6

27.6

-1.4

-4.83

32,670

DXV

9.2

9.2

9.2

-0.4

-4.17

29,240

FBT

17

17

17

-0.8

-4.49

110,360

FMC

13

13

13

-0.6

-4.41

18,100

FPC

19.4

18.5

19.4

0.0

0.00

9,090

FPT

74.5

73

73

-3.5

-4.58

423,180

GIL

16

15.7

15.7

-0.8

-4.85

31,310

GMC

15.9

15.9

15.9

-0.8

-4.79

2,010

GMD

37.9

37.9

37.9

-1.9

-4.77

64,170

GTA

11.4

11.4

11.4

-0.5

-4.20

8,160

HAP

22.8

22.8

22.8

-1.1

-4.60

30,990

HAS

13.1

12.9

12.9

-0.6

-4.44

13,330

HAX

19.9

19.9

19.9

-1.0

-4.78

5,300

HBC

18.4

17.5

17.9

-0.5

-2.72

69,830

HBD

11.8

11.8

11.8

-0.6

-4.84

2,600

HDC

23

22.8

22.8

-1.2

-5.00

37,590

HMC

17.1

17.1

17.1

-0.9

-5.00

22,930

HPG

38.5

38

38

-1.9

-4.76

297,200

HRC

30.1

30.1

30.1

-1.5

-4.75

9,710

HSI

15.3

15.2

15.2

-0.8

-5.00

16,600

HT1

15.5

14.5

14.5

-0.7

-4.61

27,930

HTV

11.4

11.4

11.4

-0.6

-5.00

17,000

ICF

9.5

9.3

9.3

-0.4

-4.12

37,750

IFS

9.8

9.5

9.5

-0.5

-5.00

25,210

IMP

82

81

81

-3.0

-3.57

4,500

ITA

33.9

33.8

33.9

1.6

4.95

534,290

KDC

39.2

38

38.7

0.0

0.00

292,130

KHA

11.9

11.5

11.9

-0.1

-0.83

25,950

KHP

11.5

10.7

10.7

-0.5

-4.46

120,770

KMR

9

8.6

8.6

-0.4

-4.44

52,990

L10

12.8

12.8

12.8

-0.6

-4.48

5,980

LAF

15

15

15

-0.7

-4.46

27,740

LBM

26

25.6

25.6

-1.3

-4.83

57,670

LGC

23.3

23.3

23.3

-1.2

-4.90

1,300

LSS

14.4

13.9

13.9

-0.6

-4.14

11,240

MAFPF1

4.5

4.5

4.5

-0.2

-4.26

2,140

MCP

13.9

13.9

13.9

0.6

4.51

35,140

MCV

11.6

11.4

11.4

-0.6

-5.00

79,600

MHC

12.2

12.2

12.2

-0.6

-4.69

3,080

MPC

12.5

12.4

12.4

-0.6

-4.62

163,570

NAV

14

13.7

13.7

-0.7

-4.86

23,050

NHC

45

44.2

44.2

-2.3

-4.95

13,260

NKD

33.5

31.9

31.9

-1.6

-4.78

59,650

NSC

28.7

28.5

28.5

-1.5

-5.00

31,950

NTL

42.8

42.8

42.8

-2.2

-4.89

12,200

PAC

42.4

40.8

42.4

-0.4

-0.93

30,860

PET

18.8

18.6

18.6

-0.9

-4.62

100,540

PGC

11.9

11.7

11.7

-0.6

-4.88

39,600

PIT

16

15.7

15.7

-0.8

-4.85

35,520

PJT

13.3

13.3

13.3

-0.7

-5.00

8,040

PMS

19.4

18.6

19.4

-0.1

-0.51

40

PNC

11.5

10.7

11.2

0.2

1.82

9,080

PPC

23

22.8

22.8

-1.2

-5.00

402,620

PRUBF1

4.3

4.1

4.1

-0.2

-4.65

171,160

PVD

80

79

79

-4.0

-4.82

330,320

PVT

19

19

19

-1.0

-5.00

46,010

RAL

31.9

31.8

31.8

-1.6

-4.79

20,240

REE

28.3

27.5

27.6

-1.3

-4.50

244,700

RHC

18.4

17.6

17.6

-0.9

-4.86

26,310

RIC

16.5

15.7

15.7

-0.8

-4.85

18,240

SAF

21.4

21.4

21.4

-1.1

-4.89

950

SAM

17.3

17.2

17.2

-0.9

-4.97

354,580

SAV

13

12.4

13

0.0

0.00

12,680

SBT

9.9

9.7

9.7

-0.5

-4.90

286,840

SC5

29.8

28.5

28.5

-1.5

-5.00

121,220

SCD

18

17.5

17.9

-0.5

-2.72

230

SDN

20.8

19

20

0.1

0.50

440

SFC

39.4

37.5

39.4

0.0

0.00

920

SFI

46.4

46.4

46.4

-2.4

-4.92

21,850

SFN

11.7

11.7

11.7

-0.6

-4.88

2,000

SGC

14.4

13.7

13.7

-0.7

-4.86

11,770

SGH

84

83

83

-4.0

-4.60

200

SGT

26.6

26.6

26.6

-1.4

-5.00

29,620

SHC

40

37

37

-1.7

-4.39

16,300

SJ1

16.8

15.7

16

-0.5

-3.03

7,510

SJD

15

14.6

14.6

-0.7

-4.58

34,250

SJS

59

58

58

-3.0

-4.92

108,920

SMC

24.6

24.1

24.1

-1.2

-4.74

41,010

SSC

23.3

23.3

23.3

-1.2

-4.90

65,570

SSI

32.2

32.1

32.1

-1.6

-4.75

409,510

ST8

30.4

30.4

30.4

-1.6

-5.00

5,460

STB

21.3

20.9

20.9

-1.1

-5.00

1,937,030

SZL

58.5

56

56

-2.5

-4.27

21,070

TAC

30.4

30.4

30.4

-1.6

-5.00

18,810

TCM

10.5

10.3

10.3

-0.5

-4.63

79,920

TCR

11.2

10.3

10.3

-0.5

-4.63

6,810

TCT

88

88

88

-4.5

-4.86

5,260

TDH

30.8

29.7

30.4

1.0

3.40

238,280

TMC

28.2

28

28

-1.4

-4.76

10,310

TMS

37.5

37.5

37.5

-1.9

-4.82

4,910

TNA

19.3

19.1

19.1

-1.0

-4.98

470

TNC

11.2

10.8

11

-0.2

-1.79

29,990

TPC

8.2

8

8

-0.4

-4.76

74,290

TRC

35.6

35.6

35.6

-1.8

-4.81

7,570

TRI

12.1

12.1

12.1

-0.6

-4.72

2,380

TS4

10.9

10.8

10.8

-0.5

-4.42

17,100

TSC

55.5

55.5

55.5

-2.5

-4.31

7,000

TTC

10.7

9.8

10.7

0.4

3.88

37,630

TTF

19.6

19.6

19.6

-1.0

-4.85

20,080

TTP

20.5

20

20

-1.0

-4.76

107,900

TYA

15.2

15.2

15.2

-0.8

-5.00

89,740

UIC

12

11.4

11.4

-0.6

-5.00

17,950

UNI

15.4

15.2

15.2

-0.8

-5.00

13,200

VFC

10.5

9.7

9.7

-0.5

-4.90

65,270

VFMVF1

9.6

9.5

9.5

-0.5

-5.00

90,510

VFMVF4

5.6

5.4

5.4

-0.2

-3.57

125,010

VGP

23.2

23.1

23.1

-1.2

-4.94

10,240

VHC

25

24.3

24.3

-1.2

-4.71

67,150

VHG

10.2

10.2

10.2

-0.5

-4.67

26,440

VIC

82.5

79

82

-0.5

-0.61

43,120

VID

10.2

9.8

10

-0.3

-2.91

93,320

VIP

14.3

14.2

14.2

-0.7

-4.70

275,780

VIS

27

25.5

25.6

-0.8

-3.03

112,020

VKP

9.5

9.1

9.1

-0.4

-4.21

33,020

VNA

25.8

25.8

25.8

-1.3

-4.80

54,970

VNE

9.1

8.9

8.9

-0.4

-4.30

137,460

VNM

78

77

77

-4.0

-4.94

396,910

VNS

22.1

22

22

-1.1

-4.76

32,520

VPK

10

9.5

9.5

-0.5

-5.00

9,800

VPL

95

93

95

-0.5

-0.52

81,650

VSC

66.5

66

66

-2.5

-3.65

45,790

VSG

14.2

14.2

14.2

-0.7

-4.70

15,770

VSH

27.5

27.1

27.2

-1.3

-4.56

137,390

VTA

9.1

8.8

8.9

-0.3

-3.26

8,280

VTB

15.9

15.2

15.9

0.0

0.00

2,960

VTC

12.5

11.6

12.4

0.2

1.64

5,160

VTO

15

14.7

14.7

-0.7

-4.55

502,170

ATPVietnam