Sắc xanh bao trùm hai sàn chứng khoán

Tuesday, October 14, 2008 |

Ngay từ đầu phiên, hầu hết các mã tại HOSE đều tăng trần, kích thích lượng cầu dồn dập tăng. Tại sàn Hà Nội, HaSTC-Index vượt rào với biên độ trên 7%. Tin vui từ chứng khoán thế giới khiến giới đầu tư trong nước nức lòng.

Thị trường tài chính và cổ phiếu toàn cầu bắt đầu "ngấm thuốc", đặc biệt chứng khoán Mỹ tăng điểm mạnh nhất trong lịch sử, trong ngày giao dịch hôm qua là động lực lớn cho thị trường trong nước.

Nhà đầu tư đẩy mạnh mua vào ngày từ đầu phiên giao dịch. Lệnh mua giá ATO và giá trần chầu chực sẵn bên cột dư mua trong khi lượng cung nhỏ giọt đã đẩy giá mở cửa của hầu hết các mã lên trần. Chỉ riêng STB, số đặt mua giá ATO xấp xỉ 6 triệu đơn vị. Ba đại gia STB, DPM và SSI có tổng lượng mua giá trần và ATO vượt quá 10 triệu cổ phiếu.

Làn sóng tăng điểm của thị trường chứng khoán thế giới được phản ánh nhanh chóng vào diễn biến của chứng khoán trong nước. Ảnh: Hoàng Hà.
Làn sóng tăng điểm của thị trường chứng khoán thế giới nhanh chóng lan tới Việt Nam và được phản ảnh vào diễn biến của Vn-Index. Ảnh: Hoàng Hà.

Sau 30 phút đầu tiên của ngày giao dịch, Vn-Index có giá trị 381,94 điểm, tăng 10,27 điểm, ứng với 2,76%. Số cổ phiếu trao tay trong đợt một đạt 1,99 triệu, giá trị 62,5 tỷ đồng.

Lượng giao dịch nhỏ giọt trong đợt một cho thấy thị trường đang "cháy hàng". Thậm chí, bốn cổ phiếu TMC, SSC, SJ1, và COM dù có lượng chờ mua trần khá cao nhưng vẫn đứng giá tham chiếu sau hơn một giờ giao dịch do không có dư bán. Tình trạng giao dịch một chiều tiếp tục kéo dài trong suốt phần thời gian còn lại của đợt hai.

Nhóm được săn đón nhất trong phiên giao dịch hôm nay là các mã blue-chip như FPT, SSI, DPM, HPG, REE với lượng chờ khớp giá trần nằm trong khoảng từ 700 nghìn tới 1 triệu. Tuy nhiên, đại gia ngân hàng STB mới giữ vị trí quán quân trong nhóm cổ phiếu được săn lùng khi dư mua luôn ở mức gần 4 triệu cổ phiếu. Bên cạnh thông tin từ thị trường thế giới, quyết định mua vào của giới chứng khoán còn bắt nguồn từ việc Vn-Index đang tiếp cận đáy cũ cũng như kết quả kinh doanh quý III của doanh nghiệp niêm yết đang dần được công bố.

Đợt khớp lệnh thứ hai trở nên dài lê thê với những nhà đầu tư chầu chực để mua vào. Vn-Index không thay đổi trong suốt hơn 1h khớp lệnh liên tục, từ đó chốt đợt hai tại giá trị 389,32 điểm, lên 17,65 điểm, tương đương 4,75%. Lượng trao tay đạt 7,57 triệu chứng khoán, giá trị 253,2 tỷ đồng.

Đợt khớp lệnh đóng cửa trôi qua chóng vánh với việc lặp lại kịch bản của hai đợt khớp lệnh trước. Hàn thử biểu đóng cửa tại 389,33 điểm, cộng thêm 17,66 điểm, tương đương 4,75%. Tổng giá trị giao dịch toàn thị trường đạt 9,13 triệu cổ phiếu, giá trị 301,25 tỷ đồng. Qua giao dịch thỏa thuận, đã có 854 nghìn cổ phiếu được khớp, giá trị 24,4 tỷ đồng. Toàn sàn có 158 mã tăng, 5 mã giảm, và 1 mã đứng tại tham chiếu.

Khối ngoại hôm nay bất ngờ đẩy mạnh bán ra với lượng bán lên tới 5,94 triệu đơn vị, và chỉ mua vào 764 nghìn cổ phiếu.

Kết thúc ngày giao dịch, HaSTC-Index có giá trị 128,37 điểm, tăng 9,03 điểm, tương đương 7,57%. Khối lượng giao dịch đạt 3,5 triệu cổ phiếu, giá trị 123,45 tỷ đồng.

Chốt phiên 13/10, Dow Jones Index tăng một mạch 936 điểm, mức tăng theo ngày lớn nhất từ trước tới nay. Thị trường phản ứng tích cực sau cuộc họp giữa Tổng thống Mỹ với lãnh đạo các ngân hàng hàng đầu tại đây.

Lãnh đạo các ngân hàng hàng đầu đã có cuộc làm việc với chính phủ Mỹ nhằm xây dựng kế hoạch tiếp cận vốn vay, ứng cứu cho nền kinh tế. Chính phủ các nước châu Âu cũng dành ra 2.000 tỷ USD nhằm bảo vệ khối ngân hàng.

Động thái tích cực trên đây thổi luồng sinh khí mới cho thị trường chứng khoán Mỹ. Tất cả các cổ phiếu đều mở cửa với giá cao hơn nhiều phiên trước và cứ thế leo cao mà không quay đầu trở lại. Dow xuất phát với mức tăng hơn 400 điểm và đến giờ giao dịch buổi trưa, đã tái lập mốc 9.000 điểm vừa đánh mất tuần trước. Biên độ 11% vào lúc kết phiên được xem là mạnh nhất trong 75 năm qua. Mức tăng tuyệt đối - 936 điểm là kỷ lục chưa bao giờ xuất hiện trên phố Wall.

Tăng mạnh nhất là General Motor, hãng đang tính chuyện sáp nhập Chrysler, với mức đi lên 33%. Một số cái tên đình đám khác cũng tăng điểm là Alcoa lên 22,8%, Chevron lên 21%, Microsoft lên 18,6%, và American Express lên 18%.

Đà hứng khởi kéo dài cho đến lúc đóng cửa. Đúng lúc chuông vang lên báo hiệu kết thúc phiên, các giao dịch viên bật dậy hò reo và nổ tràng pháo tay ăn mừng. Cả sàn chứng khoán New York như muốn vỡ tung.

Chỉ số công nghiệp Dow Jones tăng tới 936 điểm, tương đương 11,08%, đóng cửa tại 9.387,61 điểm. Nasdaq Composite lên thêm 11,81%, kết thúc ngày giao dịch ở mức 1.844,25 điểm. Chỉ số Standard & Poor 500 cao hơn phiên trước 11,58%, chốt tại 1.003,35 điểm. Khoảng 3.030 cổ phiếu tăng giá, trong khi chỉ 160 đi xuống. Giá trị vốn hóa thị trường tăng thêm 1.200 tỷ USD. Kết quả giao dịch đẹp như mơ sau 8 phiên xuống dốc khiến Dow Jones mất 2.400 điểm (tương đương 22%) và xóa sạch 2.400 tỷ USD khỏi tay các nhà đầu tư.

Cơn bão tăng điểm trên Wall Street hôm qua dường như đã xóa đi bao nỗi u buồn sau 8 phiên liên tiếp thị trường lao dốc thẳng đứng. Nhưng chưa ai có thể nói cuộc khủng hoảng tài chính đã chạm đáy, mọi điều tồi tệ đã qua.

Kết phiên, khối lượng giao dịch trên toàn sàn đạt 7,1 tỷ cổ phiếu, giảm đáng kể so với con số 11,2 tỷ cổ phiếu hôm thứ sáu tuần trước, cho thấy giới đầu tư còn khá thận trọng. "Màn hình máy tính của tôi xanh rực. Tôi thích điều đó, nhưng chưa muốn ra tay lúc này. Còn quá nhiều thách thức phía trước", John Lynch, chuyên gia phân tích thị trường của hãng Evergreen Investment (Mỹ) bình luận.

Mức lỗ của phố Wall tính theo giá trị sổ sách lên tới 2.400 tỷ đôla sau 8 ngày gần đây đã được giảm một nửa chi sau phiên hôm qua. Ảnh: cache.daylife.com.
Mức lỗ của phố Wall tính theo giá trị sổ sách lên tới 2.400 tỷ đôla sau 8 ngày gần đây đã được giảm một nửa chỉ sau phiên hôm qua. Ảnh: cache.daylife.com.

Đà hồi phục của thị trường nằm trong dự tính của giới đầu tư khi một số nội dung chi tiết của bản kết hoạch giải cứu thị trường trị giá 700 tỷ đôla vừa được công bố. Kế hoạch sẽ tập trung chủ yếu vào việc mua lại tài sản cầm cố tại các ngân hàng và cổ phiếu của một số tập đoàn tài chính. Các chuyên gia cho rằng, trong những ngày tới, giới đầu tư sẽ nhận được thêm nhiều thông tin cụ thể hơn nữa.

Tiếp theo cuộc họp của 15 nước châu Âu vào chủ nhật, các nhà lãnh đạo thế giới cũng nhóm họp nhằm tìm ra giải pháp bơm tiền cho các ngân hàng cũng như nới lỏng thị trường tín dụng để các nhà băng cho vay trở lại. Đặc biệt, Mỹ tuyên bố rót tiền không giới hạn vào 3 ngân hàng trung tâm để đảm bảo thanh khoản.

Sau khi lãnh đạo của 15 nền kinh tế hàng đầu châu Âu nhóm họp để tìm ra giải pháp cho cuộc khủng hoảng tín dụng, thị trường chứng khoán tại khu vực này đã có chuyển biến mạnh mẽ.

Tại Anh, thông tin Chính phủ sẽ bơm 63 tỷ đôla vào ba ngân hàng hàng đầu cùng diễn biến tại Mỹ đã giúp chỉ số FTSE nhảy vọt 8,6%. Chỉ số DAX của Đức và CAC 40 của Pháp cũng có chung niềm vui tăng điểm với số điểm cộng lần lượt là 11,4% và 11,18%.

Cổ phiếu tại châu Á, dù không được hỗ trợ nhiều từ diễn biến tại châu Âu và Mỹ nhưng cũng khởi sắc mạnh mẽ. Ngoại trừ Đài Loan mất 2,12%, giá cổ phiếu tại Hong Kong, Hàn Quốc, Trung Quốc... cùng hồi phục. Chỉ số KOSPI Composite của Hàn Quốc lên 3,79%. Chỉ số Shanghai Composite của Trung Quốc tiến bước 3,65%. Chỉ số Hang Seng của Hong Kong giữ vị trí quán quân khi leo một mạch 10,24%.

Theo thông lệ, chuẩn bị bước vào “mùa mua sắm”, giá tiêu dùng quý 4 này sẽ tăng cao. Tuy nhiên, với những động thái hiện nay của thị trường thế giới và trong nước, giá tiêu dùng quý 4 này sẽ không như thông lệ.

Thứ nhất, thủ phạm chính gây lạm phát phi mã trong một thời gian dài sẽ tiếp tục được chế ngự.

Trước hết, nhìn vào “rổ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng” của nước ta có thể thấy rằng, giá của nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống chiếm 42,85% trong “rổ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng” ba tháng vừa qua lần lượt chỉ tăng 0,99%; 1,56% và 0%, cho nên cũng là nguyên nhân chủ yếu khiến giá tiêu dùng chỉ tăng với tốc độ “rất dễ chịu” 0,95%/tháng.

Trong đó, việc giá của nhóm hàng này ngừng tăng có phần rất quan trọng là do giá lương thực đã rơi tự do, bởi sau sáu tháng “bốc lửa” với tổng mức tăng 59,44%, ba tháng vừa qua đã lần lượt giảm 0,37%, 1,10% và 1,75%.

Do vậy, hoàn toàn có căn cứ để tin rằng giá lương thực những tháng sắp tới sẽ ổn định, thậm chí có thể tụt dốc, kéo giá tiêu dùng xuống thấp. Sản lượng lúa năm nay ước tăng 2,6 triệu tấn, không chỉ cao kỷ lục trong suốt hai thập kỷ qua, mà còn “tự cổ chí kim” chưa từng có. Trong khi đó, cho dù đạt được mục tiêu 4,5 – 4,6 triệu tấn, nhưng khối lượng gạo xuất khẩu như vậy vẫn chỉ là “giẫm chân tại chỗ” như ba năm qua, cho nên tồn kho dự trữ trong nước tất yếu sẽ tăng đột biến. Khả năng giá gạo vẫn tiếp tục tụt dốc cùng giá gạo thế giới trong những tháng tới là rất lớn.

Thứ hai, với một nền kinh tế “sống nhờ” vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu như nước ta, việc giá nguyên liệu thế giới tiếp tục xu thế hạ nhiệt là một yếu tố cực kỳ quan trọng khiến giá cả trong nước tiếp tục hạ nhiệt.

Các số liệu thống kê của IMF cho thấy, giá nguyên liệu thế giới trong tháng 7 đã chững lại (chỉ tăng 1,62%), còn hai tháng 8 và 9 liên tục rơi tự do với các mức giảm 10,69% và 9,92%.

Còn về ba tháng cuối năm nay, có hai lý do để tin rằng, xu thế hạ nhiệt này sẽ còn tiếp tục.

Một là, trái với thực trạng càng cuối năm càng tăng trong điều kiện xu thế sốt nóng còn tiếp tục tăng trong những năm trước, trong những năm sốt nóng đã lên tới mức “đỉnh” như năm nay, ba tháng cuối năm thị trường thế giới bao giờ cũng hạ nhiệt mạnh so với chín tháng đầu năm.

Kết quả tính toán từ các số liệu thống kê của IMF cho thấy, bình quân trong ba năm sốt nóng chưa đạt mức “đỉnh” như 2005, 2006 và 2007, giá nguyên liệu thế giới ba tháng cuối năm tăng 8,35% so với chín tháng đầu năm. Thế nhưng, ngược lại, bình quân trong ba năm sốt nóng giá nguyên liệu thế giới đã đạt mức “đỉnh” như 1981, 1991 và 1996 trong ba chu kỳ sốt nóng 1980 – 1984, 1988 – 1992 và 1994 – 1997, giá nguyên liệu phi lương thực, thực phẩm ba tháng cuối năm giảm 5,92%, còn giá của nhóm hàng nguyên liệu còn lại giảm 6,58%.

Hai là, triển vọng u ám của kinh tế thế giới những tháng cuối năm là điều chắc chắn, cho nên giá nguyên liệu thế giới chắc chắn cũng sẽ “mềm hơn” và “hiệu ứng” giảm giá trong nước chắc chắn sẽ còn mạnh hơn.

Thứ ba, có nhiều căn cứ để cho rằng, các thị trường đầu ra của nền kinh tế nước ta những tháng cuối năm sẽ không thuận lợi, nên xu thế giá cả tiếp tục hạ nhiệt gần như là điều chắc chắn.

Về thị trường xuất khẩu, với việc giá cả thế giới “rơi tự do” trong hai tháng vừa qua, chúng ta cũng đã phải đối mặt với những khó khăn này và đương nhiên xu thế này sẽ còn tiếp tục mạnh lên.

Bên cạnh đó, việc hầu như tất cả những thị trường xuất khẩu chủ yếu của nước ta đều phải vật lộn với cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay cũng đồng nghĩa với việc chúng ta gần như chắc chắn sẽ phải đối mặt với những khó khăn không nhỏ trong việc duy trì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu. Khi khả năng hút hàng của thị trường này giảm thì lực ép khiến giá cả trong nước không thể tăng nhanh sẽ càng lớn.

Cuối năm nay sẽ là “mùa tiêu dùng” kém sôi động so với những năm gần đây. Lạm phát tăng phi mã trong một thời gian rất dài khiến một bộ phận rất đông đảo dân cư chắc chắn đã phải “dốc túi” chi tiêu cho những nhu cầu thường nhật, đặc biệt là những bộ phận dân cư “yếu thế” trong xã hội, cho nên ảnh hưởng đáng kể đến sức mua xã hội trong những tháng tới.

Việc tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng chín tháng đầu năm tăng cao ngất ngưởng 30,1%, nhưng nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì “co lại” chỉ còn vỏn vẹn 6% đủ cho thấy ảnh hưởng rất xấu của lạm phát phi mã đến sức mua xã hội.

Tiếp theo, đó là tốc độ tăng trưởng kinh tế năm nay gần như chắc chắn thấp, đồng nghĩa với thu nhập của đại đa số dân cư tăng chậm lại và sức mua xã hội cũng yếu một cách tương ứng.

Việc giá tiêu dùng trong quý này chỉ xoay quanh mức tăng khoảng 1 – 1,4% là điều hoàn toàn có thể tính tới.(Nguồn: SGTT, 14/10)

Thị trường chứng khoán Việt Nam phiên giao dịch ngày 14/10/2008 cũng đã có sự hồi phục mạnh mẽ, hoà chung sắc xanh xuất hiện trên khắp các thị trường chứng khoán trên toàn cầu.

Điểm qua tình hình thị trường chứng khoán toàn cầu, Châu Á là nơi hồi phục sớm nhất với việc tăng khá sớm phiên trước đó, thị trường Mỹ mở cửa phiên giao dịch đầu tuần đã có ngày tăng điểm mạnh nhất kể từ năm 1933 tới nay khi các chỉ số cơ bản tăng đến hơn 11%.

Thị trường Nhật sau phiên tạm đứng ngoài niềm vui do nghỉ giao dịch trước đó, lúc này cũng đang tăng mạnh mẽ với mức tăng trên 13%, các thị trường khác cũng đều có mức tăng khá mạnh.

Thông tin hỗ trợ khá tốt bởi liên tục trong thời gian gần đây biến động của VN-Index theo sát diễn biến thị trường thế giới, cùng với sự sụt giảm liên tiếp trong thời gian qua trên thị trường Việt Nam đã khiến giá cổ phiếu giảm khá nhiều có thể đã đến ngưỡng giá nhà đầu tư chấp nhận mua vào tại thời điểm này.

Ngay trong đợt 1 hôm nay, dấu hiệu tăng điểm đã thể hiện từ những phút giao dịch đầu tiên khi cổ phiếu lần lượt được giao dịch đều tăng giá, và chốt lại đợt xác định giá mở cửa hầu hết các mã cổ phiếu đều tăng trần, VN-Index tăng thêm 10,27 điểm (tương đương tăng 2,76%) lên 381,94 điểm.

Giao dịch tiếp tục giảm mạnh ngay đợt 1 bởi lượng đặt bán nhỏ giọt bị áp đảo hoàn toàn trước sức mua tăng lên mạnh mẽ và đợt này chỉ có gần 2 triệu đơn vị được giao dịch với giá trị là 62,53 tỷ đồng.

Ngay khi bước sang đợt khớp lệnh liên tục, chỉ số VN-Index đã tăng gần hết biên độ cho phép khi một số mã chưa có giao dịch trong đợt 1 đã tăng giá ngay khi có khối lượng chuyển nhượng, cụ thể, kết thúc đợt 2, chỉ số này tăng 17,65 điểm (tương đương tăng 4,75%) lên 389,32 điểm.

Giao dịch vẫn ở mức thấp vì trong cả đợt này lượng bán ra vẫn chỉ nhỏ giọt và cũng chỉ có hơn 7,57 triệu đơn vị được giao dịch với giá trị là 253,22 tỷ đồng.

Đợt xác định giá đóng cửa, VN-Index dường như không thể tăng thêm bởi 100% mã cổ phiếu đã tăng hết biên độ, VN-Index chốt phiên nhích nhẹ so với đợt 2 và tăng 17,66 điểm (tương đương tăng 4,75%) lên 389,33 điểm.

Như vậy sau 7 phiên sụt giảm liên tục và VN-Index chỉ còn cách đáy cũ hơn 5 điểm thì chỉ số này đã kịp bật dậy mãnh mẽ tạo khoảng cách an toàn đối với ngưỡng 366 điểm.

Tổng khối lượng giao dịch được khớp lệnh của cổ phiếu và chứng chỉ quỹ phiên này giảm xuống còn hơn 8,27 triệu đơn vị với giá trị là 276,83 tỷ đồng. Như vậy so với phiên trước đó, khối lượng tiếp tục giảm mất 36% và giá trị giao dịch giảm 26%.

Trong tổng số 160 mã cổ phiếu và 4 chứng chỉ quỹ niêm yết ngoại trừ mã SAF của CTCP lương thực thực phẩm Safoco không tăng trần (+800 đồng lên 20.400 đồng/cp) thì còn lại toàn bộ 163 mã tăng giá kịch trần.

Tăng giá mạnh nhất (xét về giá trị tuyệt đối) thuộc về các mã đang có thị giá cao: DHG của Dược Hậu Giang (+5.000 đồng lên 119.000 đồng/cp); BMC của Bimico (+4.500 đồng lên 94.500 đồng/cp); VPL của Du lịch Thương mại VInpearl (+4.500 đồng lên 96.000 đồng/cp); 5 mã có mức tăng 4.000 đồng là IMP của Dược Imexpharm (lên 88.000 đồng/cp), SGH của Saigon Hotel (lên 87.000 đồng/cp), TCT của Cáp treo Núi Bà Tây Ninh (lên 91.500 đồng/cp), VIC của Vincom (lên 86.000 đồng/cp) và VNM của Vinamilk (lên 89.500 đồng/cp).

Các cổ phiếu trong nhóm vốn hoá lớn phiên này nhường các vị trí đầu về khối lượng cho các mã cổ phiếu khác và đáng chú ý là mã TAC của Dầu thực vật Tường An tăng mạnh (hơn 1 triệu cp), VSH của Thuỷ điện Vĩnh Sơn-Sông Hinh sau đó (0,72 triệu cp), ITA của ITACO (0,64 triệu cp), PPC của Nhiệt điện Phả Lại (0,5 triệu cp), TRC của Cao su tây Ninh (0,44 triệu cp)...

Chi tiết giao dịch ngày 14/10:
(Đơn vị giá: 1.000đ; Đơn vị KL: 1 CP)

Mã CK

Giá cao nhất

Giá thấp nhất

Giá đóng cửa

Thay đổi

%Thay đổi

Khối lượng

ABT

31.9

31.9

31.9

1.5

4.93

85,220

ACL

34.7

34.7

34.7

1.6

4.83

10

AGF

21.9

21.9

21.9

1

4.78

7,270

ALP

11.8

11.8

11.8

0.5

4.42

500

ALT

29.2

29.2

29.2

1.3

4.66

1,820

ANV

32.5

32.5

32.5

1.5

4.84

32,420

ASP

12.3

12.3

12.3

0.5

4.24

9,300

BBC

17.9

17.9

17.9

0.8

4.68

3,800

BBT

5.7

5.7

5.7

0.2

3.64

300

BHS

16.1

16.1

16.1

0.7

4.55

2,800

BMC

94.5

94.5

94.5

4.5

5.00

31,410

BMI

22.5

22.5

22.5

1

4.65

160,270

BMP

37.6

35.9

37.6

1.7

4.74

5,760

BPC

13.9

13.9

13.9

0.6

4.51

41,820

BT6

58

56

58

2.5

4.50

24,590

BTC

33

32

33

1.5

4.76

28,120

CAN

12.3

12.3

12.3

0.5

4.24

5,420

CII

25.8

25.8

25.8

1.2

4.88

97,250

CLC

17.8

17.8

17.8

0.8

4.71

280

CNT

16.4

16.4

16.4

0.7

4.46

4,390

COM

30.8

30.8

30.8

1.4

4.76

10

CYC

14.3

14.3

14.3

0.6

4.38

50

DCC

12.6

12.6

12.6

0.6

5.00

10

DCL

53

53

53

2.5

4.95

6,450

DCT

11.3

11.3

11.3

0.5

4.63

28,910

DDM

19

19

19

0.9

4.97

1,510

DHA

19.9

19.9

19.9

0.9

4.74

113,310

DHG

119

119

119

5

4.39

66,070

DIC

16.2

16.2

16.2

0.7

4.52

700

DMC

56

56

56

2.5

4.67

2,650

DNP

11

11

11

0.5

4.76

2,580

DPC

13.9

13.9

13.9

0.6

4.51

24,470

DPM

51.5

51.5

51.5

2.3

4.67

63,950

DPR

58.5

58.5

58.5

2.5

4.46

19,890

DQC

23.4

23.4

23.4

1.1

4.93

7,480

DRC

30.9

30.9

30.9

1.4

4.75

5,200

DTT

11.9

11.9

11.9

0.5

4.39

880

DXP

27.3

27.3

27.3

1.3

5.00

100

DXV

9.4

9.4

9.4

0.4

4.44

1,130

FBT

17.2

17.2

17.2

0.8

4.88

9,500

FMC

13.2

13.2

13.2

0.6

4.76

5,900

FPC

23.6

22.9

23.6

1.1

4.89

15,090

FPT

71.5

71.5

71.5

3

4.38

42,650

GIL

16.5

16.5

16.5

0.7

4.43

2,150

GMC

16.9

16.9

16.9

0.8

4.97

50

GMD

43.2

43.2

43.2

2

4.85

10,240

GTA

12.6

12.6

12.6

0.6

5.00

1,770

HAP

22.1

22.1

22.1

1

4.74

20,190

HAS

13.2

13.2

13.2

0.6

4.76

10

HAX

21.5

21.5

21.5

1

4.88

6,220

HBC

19.1

19.1

19.1

0.9

4.95

11,890

HBD

11.9

11.4

11.9

0.5

4.39

9,150

HDC

24.9

24.9

24.9

1.1

4.62

72,200

HMC

18.6

18.6

18.6

0.8

4.49

3,670

HPG

40.8

40.8

40.8

1.9

4.88

60,510

HRC

42.7

42.7

42.7

2

4.91

213,460

HSI

17.7

17.7

17.7

0.8

4.73

1,300

HT1

15

15

15

0.7

4.90

1,550

HTV

11.1

11.1

11.1

0.5

4.72

45,450

ICF

10.2

10.2

10.2

0.4

4.08

2,600

IFS

10.8

10.8

10.8

0.5

4.85

700

IMP

88

88

88

4

4.76

6,160

ITA

35.9

35.8

35.9

1.7

4.97

643,420

KDC

39.2

39.2

39.2

1.8

4.81

112,710

KHA

12.6

12.6

12.6

0.6

5.00

570

KHP

13

13

13

0.6

4.84

4,340

KMR

9.6

9.6

9.6

0.4

4.35

119,440

L10

13.1

12.5

13.1

0.6

4.80

2,710

LAF

16.2

16.2

16.2

0.7

4.52

74,630

LBM

22.7

22.7

22.7

1

4.61

1,010

LGC

24.5

24.5

24.5

1.1

4.70

4,120

LSS

15.4

15.4

15.4

0.7

4.76

38,190

MAFPF1

4.9

4.9

4.9

0.2

4.26

43,410

MCP

13.9

13.9

13.9

0.6

4.51

430

MCV

13.1

13.1

13.1

0.6

4.80

2,600

MHC

11.5

11.5

11.5

0.5

4.55

2,930

MPC

12

12

12

0.5

4.35

4,360

NAV

14.9

14.9

14.9

0.7

4.93

3,350

NHC

42

42

42

2

5.00

2,110

NKD

41.6

41.6

41.6

1.9

4.79

18,480

NSC

28.7

28.7

28.7

1.3

4.74

750

NTL

37.9

37.9

37.9

1.8

4.99

5,930

PAC

43.9

43.9

43.9

2

4.77

109,130

PET

19.3

19.3

19.3

0.9

4.89

16,010

PGC

12.7

12.7

12.7

0.6

4.96

15,800

PIT

17.1

17.1

17.1

0.8

4.91

30

PJT

13.8

13.8

13.8

0.6

4.55

500

PMS

19.2

19.2

19.2

0.9

4.92

100

PNC

11.2

11.2

11.2

0.5

4.67

120

PPC

27.8

27.8

27.8

1.3

4.91

503,570

PRUBF1

4.3

4.3

4.3

0.2

4.88

9,880

PVD

81.5

81.5

81.5

3.5

4.49

87,600

PVT

19

19

19

0.9

4.97

50,500

RAL

33.6

33.6

33.6

1.6

5.00

620

REE

30.1

30.1

30.1

1.4

4.88

7,240

RHC

21.5

21.5

21.5

1

4.88

250,060

RIC

16.2

16.2

16.2

0.7

4.52

4,960

SAF

20.4

20.4

20.4

0.8

4.08

100

SAM

18.6

18.6

18.6

0.8

4.49

3,850

SAV

13.6

13.6

13.6

0.6

4.62

440

SBT

10.1

10.1

10.1

0.4

4.12

8,100

SC5

28.8

28.8

28.8

1.3

4.73

200

SCD

18.1

18.1

18.1

0.8

4.62

1,090

SDN

19.9

19.9

19.9

0.9

4.74

990

SFC

39.6

39.6

39.6

1.8

4.76

850

SFI

47.8

47.8

47.8

2.2

4.82

660

SFN

11.8

11.8

11.8

0.5

4.42

6,310

SGC

13

13

13

0.6

4.84

80

SGH

87

87

87

4

4.82

20

SGT

27.5

27.5

27.5

1.3

4.96

30,080

SHC

41.7

41.7

41.7

1.9

4.77

89,670

SJ1

16.2

16.2

16.2

0.7

4.52

20

SJD

15.9

15.9

15.9

0.7

4.61

20,880

SJS

70.5

70.5

70.5

3

4.44

62,280

SMC

24.9

24.9

24.9

1.1

4.62

34,860

SSC

19.9

19.9

19.9

0.9

4.74

10

SSI

40.8

40.8

40.8

1.9

4.88

162,700

ST8

28.8

28.8

28.8

1.3

4.73

1,050

STB

21.5

21.5

21.5

1

4.88

36,750

SZL

49.1

49.1

49.1

2.3

4.91

7,800

TAC

40.3

40.3

40.3

1.9

4.95

1,040,430

TCM

10.8

10.8

10.8

0.5

4.85

21,500

TCR

11.7

11.7

11.7

0.5

4.46

21,430

TCT

91.5

91.5

91.5

4

4.57

200

TDH

32.1

32.1

32.1

1.5

4.90

347,040

TMC

28.7

28.7

28.7

1.3

4.74

20

TMS

40.1

40.1

40.1

1.9

4.97

28,550

TNA

19.4

19.4

19.4

0.9

4.86

20

TNC

13.7

13.7

13.7

0.6

4.58

310

TPC

8.8

8.8

8.8

0.4

4.76

35,220

TRC

49.3

49.3

49.3

2.3

4.89

443,270

TRI

13.8

13.8

13.8

0.6

4.55

104,970

TS4

11.9

11.9

11.9

0.5

4.39

362,200

TSC

52.5

52.5

52.5

2.5

5.00

510

TTC

10.7

10.7

10.7

0.5

4.90

6,200

TTF

21.5

21.5

21.5

1

4.88

6,030

TTP

19.9

19.9

19.9

0.9

4.74

2,940

TYA

15.5

15.5

15.5

0.7

4.73

1,150

UIC

12.1

12.1

12.1

0.5

4.31

5,070

UNI

16.4

16.4

16.4

0.7

4.46

2,600

VFC

10.5

10.5

10.5

0.5

5.00

45,010

VFMVF1

9.8

9.8

9.8

0.4

4.26

4,740

VFMVF4

5.6

5.6

5.6

0.2

3.70

4,310

VGP

23.3

23.3

23.3

1.1

4.95

1,050

VHC

23.4

23.4

23.4

1.1

4.93

3,510

VHG

11.7

11.7

11.7

0.5

4.46

2,090

VIC

86

86

86

4

4.88

46,760

VID

11

11

11

0.5

4.76

97,960

VIP

15

15

15

0.7

4.90

47,120

VIS

23.2

23.2

23.2

1.1

4.98

50,170

VKP

9.6

9.6

9.6

0.4

4.35

1,410

VNA

30.4

30.4

30.4

1.4

4.83

11,390

VNE

10.3

10.3

10.3

0.4

4.04

352,700

VNM

89.5

89.5

89.5

4

4.68

200,260

VNS

21.4

21.4

21.4

1

4.90

103,360

VPK

10.3

10.3

10.3

0.4

4.04

1,970

VPL

96

96

96

4.5

4.92

43,980

VSC

67

67

67

3

4.69

3,550

VSG

15.1

15.1

15.1

0.7

4.86

10

VSH

28.3

28.3

28.3

1.3

4.81

723,700

VTA

9.9

9.9

9.9

0.4

4.21

130

VTB

17.3

17

17.3

0.8

4.85

31,600

VTC

12.6

12.6

12.6

0.6

5.00

1,190

VTO

15.4

15.4

15.4

0.7

4.76

28,350

ATPVietnam