Ngân hàng đồng loạt giảm mạnh lãi suất

Tuesday, November 4, 2008 |

“Đáy” lãi suất cho vay xuống 15%

Lãi suất cơ bản giảm xuống còn 12%/năm, trần lãi suất chỉ còn 18%, nhưng hành động giảm mạnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc cho các NHTM Nhà nước, NHTMCP Ngoại thương Việt Nam, đã giúp các ngân hàng có cơ sở để cắt giảm mạnh lãi suất huy động và cho vay.

Khảo sát hệ thống ngân hàng bước đầu cho thấy, lãi suất cho vay của các ngân hàng “được chỉ định” đã có bước giảm sâu, với mức đáy 15%/năm.

Cụ thể, kể từ ngày 4/11, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) điều chỉnh lãi suất cho vay gồm cả nội và ngoại tệ. Trong đợt giảm lãi suất này, BIDV là ngân hàng thương mại có mức giảm sâu nhất so với mặt bằng lãi suất hiện nay.

Trong đó, lãi suất cho vay ngắn hạn bằng nội tệ giảm 1,2%/năm, xuống các mức 15%/năm và 16%/năm; lãi suất cho vay trung và dài hạn giảm 2,1%/năm, xuống 16,8%/năm.

Lãi suất cho vay bằng USD tại ngân hàng này giảm xuống các mức: 5,5%/năm (kỳ hạn cho vay 2 tháng), 6%/năm (kỳ hạn 2 - 3 tháng) và 6,5% (kỳ hạn trên 3 - 6 tháng).

Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (Agribank) cũng giảm lãi suất cho vay bằng VND với các đối tượng ưu tiên theo chính sách khách hàng của mình từ 15 - 16%/năm; đặc biệt cho vay hộ sản xuất ở địa bàn nông thôn là 15,5%/năm, cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa 15,9%/năm.

Nhanh nhạy không kém trong khối ngân hàng TMCP là Ngân hàng An Bình (ABBank), ngân hàng này cũng công bố giảm 1% lãi suất cho vay bằng VND, xuống còn mức 17 - 18%/năm, doanh nghiệp thân thiết có thể hưởng mức 16 - 16,5%.

Ngân hàng Liên Việt (LienVietBank) thậm chí có mức hạ lãi suất cho vay tương đương “anh cả” Agribank, với mức ưu đãi thấp nhất xuống 15,5% (giảm 1,5% so với trước đây).

Bên cạnh cắt giảm sâu lãi suất cho vay, kể từ ngày 5/11, BIDV cũng cắt giảm lãi suất huy động với VND và USD. Theo đó, lãi suất huy động VND kỳ hạn 1 tháng giảm 3,5%, từ 15%/năm xuống 11,5%/năm; từ trên 1 - 9 tháng giảm 1,5%, xuống còn 13,5%/năm; trên 9 tháng giảm 3,5%, còn 12,5%. Lãi suất huy động USD cũng giảm trung bình 0,5%, kỳ hạn 3 tháng trở lên còn 2,5%/năm.

Lãi suất huy động của LienVietBank cũng được điều chỉnh giảm xuống 1%/năm tương ứng cho tất cả các kỳ hạn.

Trong tuần qua, các thành viên Hiệp hội Ngân hàng (VNBA) đã nhóm họp và đi đến thống nhất sẽ nắn dần đường cong lãi suất, khắc phục những bất hợp lý ở các kỳ hạn ngắn và cực ngắn, khuyến khích tiền gửi với kỳ hạn dài.

Tuy nhiên, theo ý kiến của số đông, trong điều kiện lạm phát đang có xu hướng giảm thì “đỉnh” của đường cong lãi suất trong năm 2008 nên dừng ở thời hạn 9 tháng; còn thời hạn từ 12 tháng trở lên, lãi suất huy động nên xác định cho phù hợp với dự báo lạm phát năm 2009.

Tập trung ưu tiên cho khối DNNVV

Lần đầu tiên trong vòng 18 năm qua, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của cả nước âm 0,19%; đằng sau giảm phát là nỗi lo nguy cơ thiểu phát và nguy cơ suy thoái.

Ảnh bởi cuộc khủng hoảng đang lan rộng trên toàn thế giới, xuất khẩu của Việt Nam bị ảnh hưởng mạnh, nhất là xuất khẩu tiêu dùng ở mặt hàng cao cấp như Mỹ và Châu Âu; khả năng giải ngân của dòng vốn FDI bị chậm lại.

Hiện tại, hiện tượng trì trệ đình đốn đã xảy ra trong một số lĩnh vực như: phôi sắt, xi măng tồn kho, giá cà phê giảm; dẫn tới nguy cơ thua lỗ, thậm chí là phá sản của một số doanh nghiệp.

Do đó, với hành động được đánh giá là kịp thời của Ngân hàng Nhà nước, nếu như trong đợt điều chỉnh lãi suất cho vay trước đây, doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) nằm ở thứ tự ưu tiên thứ hai, thì nay, các ngân hàng đã đặt nhóm này vào vị trí ưu tiên thứ nhất.

Ông Trần Bắc Hà, Chủ tịch HĐQT BIDV dự báo: "Từ nay đến cuối năm, lãi suất cơ bản sẽ còn giảm tiếp, điều quan trọng bây giờ là cứu doanh nghiệp, với mức vốn vay doanh nghiệp tiếp cận được".

Mục đích giảm mạnh lãi suất cho vay của ngân hàng là nhằm giúp các doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn dễ dàng hơn. Nhưng trên thực tế, nhiều doanh nghiệp cho biết họ rất khó để tiếp cận nguồn vốn, phát triển sản xuất, kinh doanh.

Về điều này, ông Hà bày tỏ: "Không nên nghe dư luận quá nhiều về việc không tiếp cận được nguồn vốn. Vốn khả dụng của các ngân hàng đang có tính thanh khoản cao và đang tốt dần, ngân hàng sẽ phải giải quyết bài toán cho vay, chứ để ứ đọng thì ngân hàng lỗ".

Ông Hà lấy ví dụ từ thực tế ngân hàng mình: Tăng trưởng tín dụng của BIDV trong tháng 10 đạt mức 2,4% - mức cao nhất kể từ đầu năm tới nay - "chứng tỏ tiếp cận vốn không trở ngại, ngoài ra tiếp cận vốn còn được biểu hiện qua đường dây nóng".

Một số ngân hàng cho hay: Trước thực trạng của kinh tế Việt Nam hiện nay và chỉ số CPI cả quý IV sẽ có mức tăng dưới 0,5%, Ngân hàng Nhà nước vẫn có thể còn nới lỏng chính sách tiền tệ, tiếp tục giảm lãi suất cơ bản, là cơ hội để các ngân hàng hạ lãi suất cho vay đối với khách hàng.


Theo công bố của SJC Hà Nội, giá vàng miếng SJC đang được doanh nghiệp này niêm yết ở mức giá: 1,655 triệu đồng/chỉ (mua vào) - 1,67 triệu đồng/chỉ (bán ra), giảm 8.000 đồng/chỉ so với chiều qua.

Trên thị trường tự do, vàng Bảo Tín Minh Châu có giá: 1,659 triệu đồng/chỉ - 1,668 triệu đồng/chỉ, giảm 2.000 đồng/chỉ. Tại sàn vàng ACB, giá vàng SJC khớp ở mức giá 1,516 triệu đồng/chỉ; tính đến 10h sáng 4/11, toàn sàn có 40.550 lượng vàng chuyển nhượng thành công, tương ứng giá trị trên 614 tỷ đồng.

Giá vàng trong nước đang đi ngược lại xu hướng thế giới. Bởi chốt phiên hôm qua, giá vàng giao vào tháng 12 tại thị trường New York tăng 8,6 USD (tương đương 1,2%), lên mức 726,8 USD/ounce.

Một số chuyên gia cho hay, giá vàng thế giới tăng khá mạnh trong phiên giao dịch đầu tuần là do đầu tư đẩy mạnh mua vào khi giá vàng ở mức hấp dẫn. Tuy nhiên, theo nhận định, mức tăng của giá vàng sẽ không nhiều vìtình hình kinh tế suy thoái sẽ khiến nhu cầu đầu tư đối với các loại hàng hóa cùng giảm.

Tuy điều chỉnh giảm nhưng giá vàng trong nước vẫn cao hơn mặt bằng giá thế giới gần 200.000 đồng/chỉ.

Với thị trường ngoại tệ, phản ứng với những biện pháp nới lỏng chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước, trong đó có việc lãi suất cơ bản giảm 1%, xuống 12%/năm, tỷ giá USD/VND chợ đen không ngừng tăng vọt.

Sáng nay, một số cửa hàng kinh doanh ngoại tệ trên phố Hà Trung tăng tiếp 50 VND so với hôm qua, lên mức 17.050 VND (mua vào) - 17.100 VND (bán ra).

Tỷ giá bình quân liên ngân hàng cũng được Ngân hàng Nhà nước tăng thêm 2 VND so với hôm qua, lên mức 16.512 VND/USD; tỷ giá giao dịch của ngân hàng thương mại tăng 20 VND (mua vào) và 7 VND (bán ra), lên mức tương ứng: 16.830 - 16.842 VND.

Giá dầu giảm dưới ngưỡng 64 USD/thùng

Kết thúc phiên giao dịch hôm qua, giá dầu giao vào tháng 12 tại New York giảm 3,9 USD (tương đương 5,8%), đóng cửa ở mức 63,91 USD/thùng. Đây là mức hạ mạnh nhất của giá dầu kể từ ngày 22/10.

Giá dầu giảm mạnh sau khi bản báo cáo cho thấy tình hình sản xuất tại Mỹ đi xuống của tháng 10 với mức độ mạnh nhất trong 26 năm. Đây được xem là dấu hiệu cho thấy tiêu thụ nhiên liệu sẽ giảm bớt.

Trên thực tế, trong suốt 4 tháng qua, giá dầu đã hạ suốt 4 tháng qua bởi kinh tế Mỹ suy yếu khiến nhu cầu sử dụng năng lượng tại nền kinh tế tiêu thụ năng lượng lớn nhất thế giới giảm bớt.

Với thị trường Singapore, nơi cung ứng nhiên liệu cho Việt Nam, xăng A92 có mức giá 61,35 USD/thùng; dầu diezen 0,25S có giá 80,39 USD/thùng và ma-zút có giá 278,95 USD/tấn.

Trong phiên giao dịch xác định giá mở cửa thị trường, Vn-Index chỉ nhích nhẹ 0,4 điểm với giao dịch diễn ra khá cầm chừng. Tuy nhiên, bước sang đợt khớp lệnh liên tục, nhóm cổ phiếu có mức vốn hoá lớn sau khi giữ giá tham chiếu đã tăng trần kéo nhiều mã cổ phiếu khác cũng tăng theo.

Vn-Index theo đó kết thúc đợt 2 đã tăng mạnh 13,84 điểm với khối lượng giao dịch tăng vọt so với đợt 1. Chốt phiên, chỉ số này tăng mạnh 12,8 điểm (tương đương tăng 3,67%) lên 361,44 điểm.

Toàn thị trường có 19,52 triệu đơn vị giao dịch trị giá 539,07 tỷ đồng, trong đó giao dịch thỏa thuận chưa đến 1 triệu đơn vị. Trong tổng số 167 mã niêm yết trên Hose chỉ có 12 mã giảm giá trong đó có 9 mã giảm sàn, 8 mã đứng giá còn lại là 147 mã tăng giá trong đó tròn 100 mã tăng kịch trần.

Tân binh PVF tiếp tục là tâm điểm chú ý của thị trường, cổ phiếu này gây bất ngờ khi đầu phiên giảm sàn với khối lượng dư bán bán lớn nhưng đến giữa phiên sức mua vào tăng mạnh ở mã này khiến giao dịch ở mã này tăng vọt với hơn 2,33 triệu đơn vị được khớp lệnh thành công.

Tuy vậy mã này chủ yếu được giao dịch ở mức giá sàn và chung cuộc PVF tiếp tục giảm sàn 1.200 đồng xuống 22.800 đồng/CP. Nhóm giảm giá phiên này tiếp tục có sự góp mặt của 2 tân binh HLA và OPC.

Về giao dịch, STB vẫn dẫn đầu với 3,93 triệu, tiếp theo là PVF với 2,33 triệu cổ phiếu.

Trong nhóm 10 cổ phiếu có mức vốn hóa lớn nhất thị trường có tới 8/10 mã tăng kịch trần như DPM, HPG, FPT, SSI, STB... duy nhất VPL chưa tăng hết biên độ với mức tăng 2.500 đồng lên 90.000 đồng/CP.

Bên sàn Hà Nội, bắt được tín hiệu tăng đồng loạt từ các cổ phiếu “họ” Sông Đà, 137 cổ phiếu tăng điểm vào cuối phiên, toàn thị trường có 7 cổ phiếu giảm giá, 4 cổ phiếu đứng giá và 7 cổ phiếu không có giao dịch.

Kết thúc phiên, Hastc-Index tăng hơn 5%, tương đương mức tăng 5,73 điểm lên 118,61 điểm. Giao dịch tăng mạnh với 7,58 triệu cổ phiếu, đạt 200,05 tỷ đồng.

Thị trường thực sự “bứt phá” khi cổ phiếu ACB bắt đầu tăng điểm trở lại, sau khi giảm nhẹ vào đầu giờ. Hàng loạt các cổ phiếu họ SD tăng trần, các cổ phiếu khác như CCM, HPC, KLS, PPG, PVI… cũng góp phần giúp đà tăng của Hastc-Index được củng cố.

Hôm nay, nhà đầu tư nước ngoài bán mạnh cổ phiếu VCG của Tổng công ty XNK và Xây dựng Việt Nam với 155.000 cổ phiếu, tuy nhiên VCG cũng có dư mua trần hơn 20.000 cổ phiếu vào cuối phiên, tổng cộng có gần 400.000 đơn vị được khớp.

Khối ngoại cũng đã bán ra 53.000 cổ phiếu KLS của CTCP Chứng khoán Kim Long, đồng thời mua vào 53.000 CP PVS của Tổng công ty Dịch vụ kỹ thuật Dầu khí.

Các cổ phiếu tăng mạnh nhất trong phiên này là VSP (tăng 5.100 đồng), MIC (tăng 4.000 đồng), CCM (2.800 đồng), RCL (2.500 đồng) và SD5 (2.200 đồng). Trong đó cổ phiếu CCM cuối phiên có dư mua trần hơn 30.000 CP giá 43.600 đồng/CP song chỉ khớp lệnh duy nhất 100 cổ phiếu.

Các cổ phiếu giảm điểm là SPP, HEV, VC6, VDL và HCT.

Xin cho tôi biết một số thông tin về chỉ số Nasdaq của thị trường Mỹ. (Nguyễn Ngọc Quỳnh- xukxikx@yahoo.com.ca)

Trả lời:

Chỉ số Nadasq được gọi là chỉ số tổng hợp Nasdaq (the Nasdaq composite), được xây dựng trên giá cổ phiếu của toàn bộ các công ty niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Nasdaq.

Nasdaq được thành lập năm 1971 bởi Hiệp hội những người buôn bán chứng khoán Quốc gia (NASD) và hiện đang được điểu hành bởi Nasdaq Stock Market, Inc. Nasdaq là sàn giao dịch chứng khoán điện tử lớn nhất nước Mỹ, với khoảng 3.200 công ty niêm yết và số lượng cổ phiếu giao dịch bình quân nhiều hơn bất kỳ sàn giao dịch khác ở Mỹ, kể cả NYSE. Có giá trị vốn hoá thị trường đứng thứ 3 thế giới (sau NYSE và Tokyo stock Exchange). Điểm khác biệt quan trọng giữa Nasdaq với các sàn giao dịch chứng khoán lớn khác là ở chỗ nó là một sàn giao dịch chứng khoán phi tập trung (OTC). Chỉ số Nasdaq được theo dõi nhiều nhất đối với các công ty hoạt động trong lĩnh vực công nghệ.

Bên cạnh chỉ số tổng hợp Nasdaq còn có chỉ số Nasdasq 100 và Nasdasq Financial 100 cũng là những chỉ số chứng khoán rất quan trọng. Một số mốc chính với chỉ số tổng hợp Nasdaq:

- 17/7/1995: Lần đầu tiên chỉ số tổng hợp Nasdaq đóng cửa ở mức giá trên 1.000 điểm.

-10/3/2005: Chỉ số này đạt mức giao dịch cao kỉ lục 5.132,52 điểm.

-10/10/2002: Chỉ số tổng hợp Nasdaq tụt xuống mức thấp nhất 1.108,49 điểm.

Bên cạnh Nasdaq Composite thì Nasdaq 100 và Nasdaq Financial 100 cũng là những chỉ số chứng khoán rất quan trọng. Nasdaq 100 là chỉ số chứng khoán của 100 công ty phi tài chính lớn nhất được niêm yết trên Nasdaq, cả công ty trong nước và quốc tế, còn Nasdaq Financial 100 là của các công ty tài chính.

Để được lọt vào top 100 công ty trong chỉ số Nasdaq 100, một công ty phải đạt được các số tiêu chí sau, bao gồm:

- Được niêm yết độc quyền trên Nasdaq.

- Đã niêm yết được ít nhất 2 năm( hoặc 1 năm nếu thoả mãn một số tiêu chuẩn về vốn hoá thị trường).

- Khối lượng giao dịch bình quân ngày tối thiểu là 200,000 cổ phiếu.

- Lưu hành báo cáo hàng quí và hàng năm.

- Không đứng trước nguy cơ phá sản.

Ngoài ra, nếu công ty có nhiều loại cổ phiếu thì nó chỉ được phép có 1 cổ phiếu với giá trị vốn hoá thị trường lớn nhất được tham gia vào chỉ số Nasdaq 100. Danh mục công ty nằm trong Nasdaq 100 được tái cơ cấu lại theo chu kì 1 năm hoặc sau khi xảy ra các vụ chia tách, sáp nhập các công ty trong top 100.

Trong danh sách của Nasdaq 100 được công bố 1/2/2007 có nhiều cái tên khá quen thuộc trong lĩnh vực công nghệ như: Adobe Systems Incorporated (ADBE), Amazon.com, Inc. (AMZN), Apple Inc. (AAPL), Cisco Systems, Inc. (CSCO), Dell Inc. (DELL), eBay Inc. (EBAY)…

(Câu trả lời do Công ty Cổ phần giải pháp Công nghệ và Thông tin Tài chính Sirifin cung cấp)

Chứng khoán Mỹ sau một tuần tăng mạnh trước đó, đã mở đầu tuần mới với phiên lình xình do tâm trạng chờ đợi của giới đầu tư trước thềm cuộc bầu cử Tổng thống, cũng như những báo cáo kinh tế mới được công bố.

Chỉ số công nghiệp Dow Jones xuống nhẹ 0,06%, kết thúc ngày giao dịch 3/11 tại 9.319,83 điểm. Chỉ số Standard & Poor 500 (S&P 500) mất 0,25%, đóng cửa tại 966,3 điểm. Chỉ số công nghệ Nasdaq hiện có giá trị 1.726,33 điểm, cao hơn phiên trước 0,31%.

Kết quả cuộc bầu cử tổng thống có thể tạo hiệu ứng tâm lý tích cực cho phố Wall. Ảnh: cache.daylife.com.

Thị trường cho vay tiếp tục cải thiện cho thấy những nỗ lực của nước Mỹ và cộng đồng thế giới nhằm khơi thông dòng chảy của thị trường tiền tệ, vốn bế tắc do khủng hoảng tài chính, tiếp tục phát huy tác dụng.

Tuy nhiên, những số liệu mới công bố cho thấy tín hiệu bi quan về tình hình kinh tế. Trong tháng 10, chỉ số về tình hình sản xuất tại Mỹ giảm xuống mức 38,9 điểm, thấp hơn nhiều so với dự đoán 42 điểm của các nhà kinh tế. Đây cũng là mức thấp nhất của chỉ số này trong 26 năm qua. Trong tháng 9, chỉ số sản xuất đạt 43,5 điểm. Đà sụt giảm trên phản ánh tình trạng suy yếu của nền kinh.

Kết quả cuộc trưng cầu ý kiến của các nhà kinh tế hàng đầu nước Mỹ gần đây cho thấy đa số đều tin rằng nước Mỹ đang trong tình trạng suy thoái và tình hình sẽ không được cải thiện cho tới cuối năm 2009.

Chiều qua, Chính phủ Mỹ cho hay sẽ cần vay tới 550 tỷ đôla trong quý IV năm nay và 368 tỷ đôla trong quý I năm 2009 để bù đắp lại ngân sách dùng cho các hoạt động hỗ trợ thị trường tài chính. Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang tại Dallas, ông Richard Fisher thậm chí còn nhận định, năm 2009 sẽ không có tăng trưởng tại cường quốc số một thế giới.

Theo các nhà phân tích, cuộc bầu cử sẽ mang lại không khí tích cực cho phố Wall. Việc nhà trắng có một ông chủ mới, bất kể đó là John McCain hay Obama, có thể tạo tâm lý lạc quan cho giới đầu tư. Tuy vậy, các con số thống kê cho thấy, phố Wall tăng trưởng mạnh hơn khi người thuộc đảng cộng hòa nắm quyền.

Ngày 3/11, thị trường châu Á có phiên giao dịch khá tốt đẹp. Chỉ số Hang Seng của Hong Kong tăng 2,69%. Chỉ số KOSPI của Hàn Quốc cao hơn phiên trước 1,44%. Chỉ số Straits Time của Singapore được cộng thêm 4,28%.

Cùng ngày, chứng khoán châu Âu được hưởng niềm vui trọn vẹn khi các chỉ số FTSE 100 của Anh, DAX của Đức, và CAC 40 của Pháp lần lượt tiến thêm 1,51%, 0, 78%, và 1,17%.

Tuy nhiên sáng nay tình thế đã đảo ngược. Tính tới 9h50 sáng nay, tại Châu Á, chỉ số Nikkei 225 của Nhật lên 3,74%. Chỉ số KOSPI giảm nhẹ 0,14%. Chỉ số Hang Seng mất 2,38%. Chỉ số Shanghai Composite xuống 1,41%.

Nhích nhẹ ở đợt đầu, trồi sụt trong đợt khớp lệnh liên tục, song chung cuộc chỉ số chứng khoán sàn TP HCM vẫn đảm bảo một phiên đi lên, với mức tăng đến 12,8 điểm (3,67%), chốt 361,44 điểm.
> Chứng khoán hãm đà tăng

Đón chào thông tin nới lỏng chính sách tiền tệ từ Ngân hàng Nhà nước, Vn-Index đi qua nửa giờ giao dịch đầu tiên một cách thận trọng, chỉ giành thêm 0,4 điểm. Bên bán không chịu bán giá thấp trong khi người mua không chịu giá cao khiến khối lượng giao dịch chỉ ở mức dè chừng, với 2,6 triệu chứng khoán, đạt 68,1 tỷ đồng.

Vn-Index kéo dài chuỗi tăng sang phiên thứ 5. Ảnh: Hoàng Hà.

Hơn 70 mã có sức bật về giá, trong đó có sự góp mặt của nhiều cổ phiếu có giá trị vốn hóa lớn như SSI, STB, PPC, FPT... giữ Vn-Index ở thế tăng nhẹ trong đợt đầu đã tiếp tục phát huy vai trò trong đợt khớp lệnh liên tục. Những phút đầu, chỉ số này trượt xuống mức điểm âm, nhưng với sự hỗ trợ của lượng cầu, Vn-Index nhanh chóng bắt lại nhịp tăng và duy trì thế ổn định cho đến hết đợt 2. Khá ấn tượng, chỉ số này vọt lên 362,48 điểm sau khi đội thêm tới 13,84 điểm. Giao dịch sôi động trong đợt 2 nâng khối lượng trao tay lên 15,7 triệu chứng khoán, tương ứng 440 tỷ đồng.

Sức bật của Vn-Index có phần chững lại ở đợt 3, ấn định mức tăng chung cuộc 12,8 điểm. Không có sự phân hóa đáng kể trong nhóm mã lớn như phiên liền trước. Màu xanh chiếm lĩnh bảng điện tử, dưới 20 mã giảm, chủ yếu thuộc diện vừa và nhỏ. Như vậy, thị trường tạm chấp nhận mức đáy mới 322,8 điểm xác lập hôm 28/10.

Cùng với sự bứt phá mạnh về điểm số, thanh khoản thị trường cải thiện hơn so với hôm qua, có tổng cộng gần 20 triệu chứng khoán chuyển nhượng (tính cả thỏa thuận và khớp lệnh), đạt giá trị 539 tỷ đồng.

Trưởng phòng phân tích kỹ thuật Công ty chứng khoán Vincom, ông Phan Anh Tuấn nhận định, các doanh nghiệp niêm yết đã và đang chịu nhiều khó khăn vì lãi suất vay và chi phí tài chính cao. Với động thái hạ lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước, nhà đầu tư đặt kỳ vọng các công ty sẽ dễ thở hơn trong thời gian tới. Chính vì vậy, quyết định mua vào của nhà đầu tư trong nước vốn đã bắt đầu vài ngày qua khi thị trường tài chính thế giới ổn định, đã tiếp diễn trong phiên sáng nay, nhằm nắm bắt cơ hội sở hữu cổ phiếu giá rẻ. Tuy nhiên, tâm lý thận trọng, dè chừng vẫn còn bao phủ thị trường đã khiến cho thanh khoản dù cải thiện nhưng chưa thực sự đột phá mạnh tại thời điểm có nhiều sự lựa chọn mua vào hợp lý như hiện nay.

Kết phiên có hơn 140 mã đứng ở bậc tăng điểm. DHG tăng đến 5 điểm, blue-chip VNM, PVD, FPT, VIC có thêm 3.500-4.000 đồng một cổ phiếu. Dẫn đầu về khối lượng giao dịch hôm nay vẫn là cổ phiếu ngành ngân hàng STB, với 3,93 triệu cổ phiếu. Kế đến là mã PVF của Tổng công ty tài chính cổ phần dầu khí Việt Nam - doanh nghiệp mới lên sàn hôm qua, giao dịch đạt 2,3 triệu cổ phiếu.

Đảo chiều sau phiên giảm nhẹ hôm qua, HaSTC-Index của sàn Hà Nội sáng nay cao 5,76 điểm (5,1%), chốt ở 118,64 điểm. Tổng khối lượng giao dịch toàn thị trường đạt 7,7 triệu chứng khoán, tương đương 240 tỷ đồng.

Công ty CP Phát triển Đầu tư Công nghệ FPT (mã CK: FPT) thông báo, ông Phan Ngô Tống Hưng - Phó Chủ tịch HĐQT Công ty đã bán 15.000 cổ phiếu.

Thời gian thực hiện xong giao dịch là ngày 03/11/2008.

Số lượng cổ phiếu ông Phan Ngô Tống Hưng nắm giữ trước khi giao dịch là 1.706.666 cổ phiếu, như vậy sau khi bán 15.000 cổ phiếu nhằm phục vụ nhu cầu tài chính cá nhân, hiện ông Phan Ngô Tống Hưng còn 1.691.666 cổ phiếu (chiếm 1,82% vốn cổ phần).

Theo báo cáo trong quý III/2008, doanh thu của toàn Tập đoàn đạt 3.772,9 tỷ đồng, tăng 17,5% so với quý III/2007. Lãi trước thuế đạt trên 212 tỷ đồng, tăng 38,7% so với quý III/2008. Lãi sau thuế cổ đông công ty mẹ tăng 37,2% so với quý III/2007, đạt trên 120 tỷ đồng. Lãi cơ bản trên cổ phiếu bình quân trong quý III năm 2008 là 1.280 đồng.

Như vậy, trong 9 tháng đầu năm 2008 doanh thu của FPT đã đạt gần 12.450 tỷ đồng, tăng 36,7% so với cùng kỳ và đạt 83,3% kế hoạch năm. Lãi trước thuế của toàn tập đoàn đạt trên 843 tỷ đồng, tăng 27,9% so với cùng kỳ 2007 và đạt 71,3% kế hoạch năm. Lãi sau thuế cổ đông công ty mẹ là 508 tỷ đồng, tăng so với cùng kỳ là 12,1%.

Lãi cơ bản trên cổ phiếu bình quân 9 tháng đầu năm 2008 là 5.457 đồng.

Kết thúc phiên giao dịch sáng ngày 4/11/2008 cổ phiếu FPT tăng 3.500 đồng (tương ứng 4,49%) đóng cửa ở mức 81.500 đồng/cp với 516.940 cổ phiếu được chuyển nhượng.

Ngày

Giá

Thay đổi

% thay đổi

Khối lượng

4/11/2008

81.500

3.500

4,49%

516.940

3/11/2008

78.000

3.500

4,70%

720.560

31/10/2008

74.500

3.500

4,93%

214.790

30/10/2008

71.000

3.000

4,41%

275.860

29/10/2008

68.000

3.000

4,62%

425.290

Ngày 03/11/2008, Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) đã ký kết Biên bản ghi nhớ tăng cường hợp tác và hỗ trợ vốn cho các công ty đầu tư chiến lược của Tập đoàn Tài chính Sacombank, bao gồm các Công ty Cổ phần: Hoàng Anh Gia Lai, Đồng Tâm và Ô tô Trường Hải.

Mục tiêu của chương trình này là nhằm hỗ trợ các đối tác mở rộng quy mô và hoạt động sản xuất kinh doanh, thông qua đó tăng cường mối quan hệ hợp tác tốt đẹp giữa các bên và cùng nhau vượt qua khó khăn.

Theo Biên bản ghi nhớ này, Sacombank sẽ tài trợ số vốn 500 tỷ đồng trong ngắn, trung và dài hạn cho Công ty CP Hoàng Anh Gia Lai. Số vốn này sẽ được đầu tư vào các hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty gồm các lĩnh vực như sản xuất chế biến kinh doanh gỗ, cao su, đá granite, dịch vụ khách sạn…

Bên cạnh đó, Sacombank cũng tiếp tục hỗ trợ hơn 223 tỷ đồng cho Công ty cổ phần Đồng Tâm để bổ sung nguồn vốn lưu động, tài trợ vốn cho các công ty con trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng duới sự bảo trợ của Công ty mẹ thực hiện dự án Khu đô thị và Khu hành chính mới Tân An, tỉnh Long An.

Đồng thời, Sacombank tiếp tục ký kết phụ lục hợp đồng liên kết về việc cấp bổ sung hạn mức tín dụng với Công ty cổ phần Ô tô Trường Hải với nguồn vốn hỗ trợ 200 tỷ cho các khách hàng mua xe của Công ty đến hết năm 2008 với lãi suất rất ưu đãi.

Như vậy, với việc tăng cường đầu tư vào các Công ty hợp tác chiến lược lần này, Sacombank đang chia sẻ những khó khăn của các doanh nghiệp về nhu cầu tài chính ngắn, trung và dài hạn, nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh, vượt qua những khó khăn của nền kinh tế. Đây là một bước tiến quan trọng trong tiến trình hợp tác đầu tư giữa các bên, cùng nhau đồng hành góp sức cho sự phát triển chung của đất nước.(Nguồn: NHNN, 4/11)

Ngày 3/11, Bộ Tài chính Mỹ cho biết muốn vay 550 tỷ USD trong thời gian ba tháng từ 10 đến 12 để ổn định ngành tài chính.

Một giới chức của bộ nói số tiền vay trên cao hơn nhiều so với con số 480 tỷ USD công bố hôm tháng 7 và đây là số tiền vay trong quý cao kỷ lục. Bộ Tài chính cho biết số tiền tăng chủ yếu do phải chi tiêu nhiều hơn cho chương trình hỗ trợ kinh tế trong khi thu ít hơn và phát hành ít các chứng khoán chính quyền bang và địa phương.

Bộ cũng nói trong quý ba, chính phủ liên bang đã vay 530 tỷ USD từ thị trường, trong đó 300 tỷ USD dành cho Chương trình Bổ sung Tài chính của Cục Dự trữ Liên bang (Fed) thực hiện vào giữa tháng 9 qua để hỗ trợ nền kinh tế èo uột.

Sự leo thang khủng hoảng tài chính toàn cầu trong tháng 9 và ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế Mỹ đã buộc chính phủ ban nhiều biện pháp nhằm hỗ trợ ngân hàng và tháo băng tín dụng. Cùng lúc đó do tín dụng thắt chặt, tiền thuế thu từ doanh nghiệp và cá nhân bị thu hẹp.(Nguồn: Saigonnews, 4/11)

Tiếp tục giao dịch cầm chừng trong đợt 1, nhưng càng giao dịch thị trường chứng khoán càng sôi động khi cổ phiếu đua nhau tăng giá trước sức mua tăng lên khá mạnh.

Phản ứng của thị trường ở đầu phiên là khá yếu ớt với việc Ngân Ngân hàng Nhà nước đã tiếp tục ra quyết định quan trọng hạ lãi suất cơ bản xuống còn 12%/năm và một số quyết định quan trong khác giúp cho các tổ chức tài chính hoạt động an toàn hơn đồng thời các doanh nghiệp cũng dễ tiếp cận nguồn vốn phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh hơn.

Kết thúc giao dịch ết thúc giao dịch đợt 1 phiên giao dịch ngày 4/11, chỉ sô VN-Index tiếp tục nhích nhẹ 0,4 điểm (tương đương tăng 0,11%) lên 349,4 điểm.Khối lượng giao dịch có phần giảm sút với chỉ hơn 2,6 triệu đơn vị được giao dịch với trị giá chỉ là 68,11 tỷ đồng.

Sang đợt khớp lệnh liên tục, trong nửa đầu vẫn có sự giằng co nhưng bắt đầu có sự bứt phá khi xuất hiện những chuyển động mạnh từ nhóm cổ phiếu có mức vốn hoá lớn khi nhiều mã nhóm này tăng giá trần, các cổ phiếu khác theo đó cũng đua nhau tăng giá.

Các cổ phiếu níu kéo sức tăng của VN-Index trong một số phiên vừa qua như DPM của Đạm Phú Mỹ PVD của PV Drilling, HPG của Hoà Phát...trong đợt 2 hôm nay đã bất ngờ tăng giá kịch trần, cùng với đó là đại gia PVF của Tổng Cty Tài chính Cổ phần Dầu khí đã có lúc rời được mức giá sàn.

Biến động mạnh từ những cổ phiếu lớn khiến các cổ phiếu ồ ạt tăng giá theo, VN-Index theo đó kết thúc đợt 2 đã tăng mạnh 13,84 điểm (tương đương tăng 3,97%) lên 362,48 điểm. Khối lượng giao dịch tăng vọt so với đợt 1 khi đã có hơn 15,75 triệu đơn vị được giao dịch với giá trị là 440 tỷ đồng.

15 phút khớp lệnh xác định giá đóng cửa nhanh chóng kết thúc, khép lại phiên giao dịch nhiều cảm xúc với việc VN-Index tăng mạnh 12,8 điểm (tương đương tăng 3,67%) lên 361,44 điểm.

Tổng khối lượng giao dịch khớp lệnh của cổ phiếu và chứng chỉ quỹ phiên này tăng khá mạnh so với phiên trước đó và thanh khoản thị trường ở mức cao với hơn 18,57 triệu đơn vị được chuyển nhượng với giá trị là 507,14 tỷ đồng. Như vậy cả khối lượng và giá trị tăng xấp xỉ 20% so với phiên trước đó.

Trong tổng số 163 mã cổ phiếu và 4 chứng chỉ quỹ niêm yết phiên này chỉ có 12 mã giảm giá (trong đó có 9 mã giảm sàn), 8 mã đứng giá còn lại là 147 mã tăng giá (trong đó tròn 100 mã tăng giá kịch trần).

Cổ phiếu được chú ý nhiều nhất phiên này vẫn là PVF, đầu phiên giảm sàn với khối lượng dư bán bán lớn nhưng bất ngờ có sức mua vào tăng mạnh ở mã này khiến giao dịch ở mã này tăng vọt với hơn 2,33 triệu đơn vị được khớp lệnh thành công, khối lượng dư bán về cuối phiên đã được “vét” sạch ở mã này. Tuy vậy mã này chủ yếu được giao dịch ở mức giá sàn và chung cuộc PVF tiếp tục giảm sàn 1.200 đồng xuống 22.800 đồng/cp.

Nhóm cổ phiếu vốn hoá lớn quen thuộc ngoại trừ VPL của Du lịch Thương mại Vinpearl tăng chưa “đụng trần” (+2.500 đồng lên 90.000 đồng/cp) còn lại các mã khác đều tăng giá kịch trần. Cụ thể, SSI của Chứng khoán Sài Gòn (+1.600 đồng lên 34.900 đồng/cp), STB của Sacombank (+1.100 đồng/cp lên 23.100 đồng/cp), FPT của CTCP Phát triển Đầu tư Công nghệ FPT (+3.500 đồng lên 81.500 đông/cp), VNM của Vinamilk (+4.000 đồng lên 85.000 đồng/cp)...

Nhóm giảm giá phiên này có 2 cổ phiếu mới lên sàn gần đây là HLA của Hữu Liên Á Châu và OPC của Dược OPC ngoài ra còn các mã khác như VHC của Vĩnh Hoàn, SHC của Hàng Hải Sài Gòn, PMS của Cơ khí Xăng dầu...Như vậy phiên này VN-Index chỉ chịu sức ép từ mã PVF khi mã này giảm sàn.

Về khối lượng được khớp lệnh của từng mã, STB vẫn duy trì ngôi đầu (3,93 triệu cp), PVF (2,33 triệu cp), DPM (0,82 triệu cp), SAM (0,58 triệu cp), VIP (0,57 triệu cp), REE (0,55 triệu cp)...

Chi tiết giao dịch ngày 4/11:
(Đơn vị giá: 1.000đ, Đơn vị KL: 1 CP)

Mã CK

Giá cao nhất

Giá thấp nhất

Giá đóng cửa

Thay đổi

%Thay đổi

Khối lượng

ABT

26.9

25.7

26.9

1.2

4.67

16,740

ACL

34.1

33

34.1

1.6

4.92

17,560

AGF

18.7

17.5

18.7

0.8

4.47

93,910

ALP

10.3

9.8

10.3

0.3

3.00

36,580

ALT

25

25

25

-0.5

-1.96

500

ANV

21.9

20.7

21.9

1

4.78

233,360

ASP

11.3

10.9

11.3

0.5

4.63

22,220

BBC

16.4

15.5

16.4

0.7

4.46

41,090

BBT

6.2

6.2

6.2

-0.1

-1.59

20,300

BHS

15.4

14

15.4

0.7

4.76

12,430

BMC

85

80

85

4

4.94

35,060

BMI

19.8

19.5

19.8

0.9

4.76

33,950

BMP

36.7

36.5

36.7

1.7

4.86

15,920

BPC

12

11.5

12

0

0.00

6,100

BT6

57.5

56

57.5

1.5

2.68

1,740

BTC

27

27

27

1

3.85

6,950

CAN

12.7

11.7

12.7

0.4

3.25

14,550

CII

28.7

26.5

28.7

1.3

4.74

63,180

CLC

16.9

16.6

16.9

0.3

1.81

2,750

CNT

12.7

12.1

12.7

0.5

4.10

12,700

COM

36.2

32.8

36.2

1.7

4.93

19,400

CYC

14.4

14

14.3

0.5

3.62

20,330

DCC

12.1

11.6

12.1

0.5

4.31

12,740

DCL

34

31.2

34

1.6

4.94

64,120

DCT

10.2

9.9

10.2

0.3

3.03

42,490

DDM

16.1

15.2

15.8

0.4

2.60

57,460

DHA

22

20.6

22

1

4.76

73,400

DHG

118

116

118

5

4.42

15,800

DIC

17.4

16.3

17

0.4

2.41

48,640

DMC

56

52

56

2.5

4.67

38,430

DNP

11

10.4

11

0.5

4.76

12,920

DPC

12

11.6

12

0.4

3.45

4,530

DPM

47.4

44.1

47.4

2.2

4.87

815,040

DPR

37

37

37

1.7

4.82

201,230

DQC

19.1

17.8

19.1

0.9

4.95

81,750

DRC

24.5

23.4

24.5

1.1

4.70

23,420

DTT

11.8

11.8

11.8

0.4

3.51

500

DXP

27.3

25.1

27.3

1.3

5.00

43,270

DXV

8.7

8.2

8.7

0.3

3.57

15,920

FBT

17.6

16.5

17.6

0.8

4.76

16,200

FMC

11.3

10.6

11.3

0.5

4.63

72,720

FPC

20

19

19

-1

-5.00

2,030

FPT

81.5

78

81.5

3.5

4.49

516,940

GIL

15.8

15.1

15.8

0.7

4.64

34,650

GMC

15.8

14.8

15.8

0.7

4.64

7,890

GMD

35.1

33

35.1

1.6

4.78

73,140

GTA

10.4

9.5

10.4

0.4

4.00

14,370

HAP

22

20.8

22

1

4.76

75,950

HAS

12.5

11.9

12.5

0.1

0.81

13,130

HAX

17.4

16.3

17.4

0.4

2.35

7,270

HBC

17.3

17

17.3

0.8

4.85

21,180

HBD

11

10.5

11

0.5

4.76

4,980

HDC

23.9

23.4

23.9

1.1

4.82

36,580

HLA

26.3

26.3

26.3

-1.3

-4.71

39,670

HMC

15.9

15

15.9

0.7

4.61

17,920

HPG

33.9

32

33.9

1.6

4.95

449,280

HRC

27

27

27

1.2

4.65

13,660

HSI

14.1

13.1

14

0.5

3.70

20,100

HT1

15.5

14.3

15.5

0.5

3.33

57,020

HTV

10.9

10.2

10.9

0.4

3.81

24,230

ICF

9.6

9.2

9.6

0.4

4.35

46,630

IFS

9.6

9

9.6

0.4

4.35

22,950

IMP

77

71

77

3.5

4.76

2,880

ITA

33.3

31

33.3

1.5

4.72

293,830

KDC

35.1

34

34

0

0.00

156,480

KHA

13.3

12.7

13.3

0.6

4.72

75,140

KHP

12

11

12

0.5

4.35

99,510

KMR

7.8

7.5

7.8

0.3

4.00

65,200

L10

13.1

13

13

0.5

4.00

8,000

LAF

13.5

12.6

13.5

0.6

4.65

46,890

LBM

23.6

22

23.6

0.6

2.61

77,810

LGC

18.9

17.8

18.8

0.1

0.53

11,260

LSS

15.5

14.9

15.5

0.7

4.73

76,480

MAFPF1

4.4

4.2

4.4

0

0.00

48,530

MCP

16.4

15.7

16.4

0

0.00

39,130

MCV

11.7

11.1

11.7

0.4

3.54

94,850

MHC

10.6

9.7

10.6

0.5

4.95

77,930

MPC

12.8

11.9

12.8

0.5

4.07

72,250

NAV

13.8

13

13.7

0.5

3.79

27,610

NHC

42

39.1

42

2

5.00

10,280

NKD

33.4

31.4

33.3

0.3

0.91

5,170

NSC

28.8

27.5

28.8

1.3

4.73

27,200

NTL

38.3

36.5

38.3

1.8

4.93

64,980

OPC

54.5

54.5

54.5

-2.5

-4.39

900

PAC

41.6

41

41.5

0.5

1.22

25,930

PET

19.2

18

19.2

0.9

4.92

114,940

PGC

12.9

12.4

12.9

0.5

4.03

41,590

PIT

15.8

15.1

15.8

0.7

4.64

19,250

PJT

13.2

12.8

13.2

0.6

4.76

21,100

PMS

19

19

19

-0.9

-4.52

1,000

PNC

11.5

10.6

11.5

0.5

4.55

6,850

PPC

24.5

24

24.5

1.1

4.70

224,710

PRUBF1

4.5

4.3

4.5

0.2

4.65

138,920

PVD

83

78

83

3.5

4.40

376,770

PVF

24.8

22.8

22.8

-1.2

-5.00

2,334,610

PVT

19.9

18.3

19.9

0.9

4.74

477,130

RAL

29.6

28

29.6

1.4

4.96

12,520

REE

26.7

24.8

26.7

1.2

4.71

549,740

RHC

18.9

17.3

18.9

0.9

5.00

8,010

RIC

14.7

14

14.7

0.7

5.00

6,800

SAF

18.6

17.8

18.6

0.8

4.49

500

SAM

18.6

17.5

18.6

0.8

4.49

575,650

SAV

12.3

11.6

12.3

0.1

0.82

14,100

SBT

9.7

9.3

9.7

0.4

4.30

174,010

SC5

27.3

26

27.3

1.3

5.00

24,470

SCD

18.5

18.5

18.5

0.5

2.78

10

SDN

20

19

20

0

0.00

120

SFC

36.7

36.7

36.7

1.7

4.86

810

SFI

50.5

48.1

50.5

2.4

4.99

51,210

SFN

11.8

11.3

11.3

-0.5

-4.24

290

SGC

13.5

12.9

13.4

0

0.00

4,540

SGH

82.5

79

82.5

3.5

4.43

410

SGT

29.9

27.5

29.9

1.4

4.91

79,180

SHC

28.6

27.3

27.3

-1.4

-4.88

60,210

SJ1

16

15.2

16

0.3

1.91

5,670

SJD

14.8

14.1

14.8

0.7

4.96

30,450

SJS

61

57

61

2.5

4.27

107,670

SMC

22.5

20.7

22.5

1

4.65

57,850

SSC

24.2

24

24.2

0.7

2.98

7,350

SSI

34.9

34.9

34.9

1.6

4.80

104,450

ST8

27

25.7

26

-0.8

-2.99

7,120

STB

23.1

22

23.1

1.1

5.00

3,937,070

SZL

57

55

57

2.5

4.59

37,890

TAC

29.9

28.5

29.9

1.4

4.91

147,220

TCM

9.9

9.3

9.9

0.4

4.21

57,930

TCR

11.7

11.2

11.2

-0.5

-4.27

28,580

TCT

93

87.5

93

4

4.49

13,070

TDH

33.4

32.8

33.4

1.5

4.70

156,840

TMC

26

25

26

0.5

1.96

9,170

TMS

40

39.6

40

0.5

1.27

1,830

TNA

19.7

18.2

19.7

0.8

4.23

3,500

TNC

11.5

10.6

11.5

0.5

4.55

66,450

TPC

8.8

8.8

8.8

0.4

4.76

12,920

TRC

32

32

32

1.5

4.92

200,230

TRI

11.5

11.3

11.4

0.1

0.88

19,960

TS4

10.5

9.5

10.5

0.5

5.00

44,290

TSC

54

49.4

54

2.5

4.85

54,920

TTC

10.5

9.9

10.5

0.4

3.96

28,190

TTF

18.3

17

18.3

0.8

4.57

9,920

TTP

22

21

22

1

4.76

227,400

TYA

14.7

14

14.7

0.7

5.00

63,350

UIC

12

11.1

12

0.5

4.35

49,070

UNI

15.5

14.5

15.5

0.6

4.03

17,450

VFC

10.2

10

10.2

0.4

4.08

31,910

VFMVF1

9.7

9.1

9.7

0.4

4.30

313,100

VFMVF4

5.2

5

5.2

0.2

4.00

141,110

VGP

23.3

22

23.3

0.8

3.56

5,820

VHC

21.4

19.8

19.8

-1

-4.81

13,800

VHG

9.5

9.2

9.5

0.3

3.26

12,830

VIC

75

71

75

3.5

4.90

13,750

VID

10.5

9.9

10.5

0.3

2.94

71,050

VIP

14

12.8

13.9

0.5

3.73

569,990

VIS

25.6

24.1

25.6

0.3

1.19

58,480

VKP

8.9

8.5

8.9

0.4

4.71

31,350

VNA

22.4

20.5

22.4

1

4.67

40,850

VNE

8.2

7.8

8.2

0.3

3.80

107,370

VNM

85

81

85

4

4.94

348,370

VNS

19.7

18.8

19.7

0.9

4.79

94,420

VPK

9.5

9.2

9.5

0.2

2.15

6,630

VPL

90

89.5

90

2.5

2.86

37,650

VSC

63

58

63

3

5.00

11,160

VSG

14.4

14

14.4

0.2

1.41

20,640

VSH

29.4

28.1

29.4

1.4

5.00

171,660

VTA

8.9

8.3

8.8

0.1

1.15

3,590

VTB

15.5

15.4

15.5

0

0.00

6,100

VTC

12.1

11.5

12.1

0

0.00

4,630

VTO

14.7

14

14.7

0.7

5.00

353,900

ATPVietnam