Phố Wall tiếp tục trượt dốc

Friday, December 19, 2008 |

Hôm qua 18/12, dầu giảm xuống dưới 40 đôla một thùng là lý do chính cho phiên giảm của chứng khoán Mỹ. Đà bán còn được đẩy mạnh do diễn biến tâm lý thường thấy trước ngày đáo hạn các hợp đồng quyền chọn và tương lai.

Chỉ số công nghiệp Dow Jones giảm 2,49% xuống còn 8.604,99 điểm. Chỉ số Standard & Poor 500 kết thúc phiên tại 885,28 điểm, thấp hơn tham chiếu 2,12%. Chỉ số Nasdaq của các tập đoàn công nghệ hàng đầu bị trừ 1,71%, đóng cửa tại 1.552,37 điểm.

19/12 là ngày tất toán các hợp đồng chọn mua chứng khoán, hợp đồng tương lai. Đã thành thông lệ, phiên giao dịch trước những ngày này thường biến động mạnh và hôm qua cũng không phải là ngoại lệ, khi các chỉ số chính liên tiếp trồi sụt.

Bên cạnh đó, quyết định tăng bán của nhà đầu tư còn bị chi phối bởi tâm lý lo ngại do suy thoái, thể hiện ở các báo cáo kinh tế ảm đạm và nhu cầu sử dụng dầu của thế giới sụt giảm.

Giá dầu tiếp tục tụt dốc khiến lo ngại về suy thoái kinh tế càng trở nên trầm trọng. Ảnh: huffingtonpost.com.
Giá dầu tiếp tục tụt dốc khiến lo ngại về suy thoái kinh tế càng trở nên trầm trọng. Ảnh: huffingtonpost.com.

Trong tuần kết thúc vào 13/12, Bộ Lao động Mỹ thông báo số người mới đăng ký nhận trợ cấp thất nghiệp là 554 nghìn, giảm nhẹ so với kỷ lục 575 nghìn của tuần trước. Song đây vẫn là tin xấu với thị trường.

Trong khi đó, nhà sản xuất xe hơi General Motors đã từ chối thảo luận về việc sáp nhập với Chrysler, một đại gia khác trong ngành công nghiệp xe hơi. Hai hãng đang gặp khó khăn và đều chờ đợi Chính phủ thông qua kế hoạch rót 14 tỷ đôla nhằm thoát khỏi nguy cơ phá sản. Trước đó, Chrysler đã phải ngưng toàn bộ hoạt động sản xuất tại khu vực Bắc Mỹ do cạn kiệt tiền mặt.

Các thống kê cho thấy giới kinh doanh tiếp tục rút chạy khỏi thị trường chứng khoán. Theo báo cáo từ Trimtabs, một công ty nghiên cứu đầu tư, 6 tỷ đôla đã bị rút khỏi các quỹ đầu tư chứng khoán trong tuần trước. Tuần trước nữa, khoảng 2,8 tỷ đôla đã chảy khỏi các quỹ trên.

Một điểm nhấn khác trong ngày hôm qua là dầu đã trở về thấp nhất kể từ tháng 6/2004 sau khi mất 3,84 đôla xuống còn 36,22 đôla một thùng. Dầu mất giá bất chấp OPEC, vào thứ từ vừa qua, tuyên bố sẽ cắt giảm 2,2 triệu thùng dầu một ngày. Kể từ khi đạt đỉnh vào tháng 7, dầu đã giảm giá hơn 100 đôla một thùng.

Tại Nhật Bản, Chính phủ nước này đang kêu gọi Ngân hàng Trung ương Nhật cần có những biện pháp triệt để để ổn định thị trường tiền tệ và tài chính. Giới đầu tư tại xứ sở mặt trời mọc vì thế rất trông đợi vào một đợt cắt giảm lãi suất mới. Kết thúc phiên, chỉ số Nikkei 225 tăng 0,64%. Trong đó, đóng vai trò chủ đạo trong phiên tăng này là cổ phiếu của các Ngân hàng như Mitsubishi, Sumitomo, hay Mizuho.

Chỉ số Hang Seng của Chứng khoán Hong Kong gần như không đổi khi chỉ lên 0,02%. Chỉ số Shanghai Composite của Trung Quốc tiến thêm 1,97%. Chỉ số KOSPI của Hàn Quốc tăng 0,53%.

Thị trường châu Âu lại có diễn biến trái chiều khi 2 trong số 3 thị trường lớn đi lên. Chỉ số FTSE 100 của Anh đóng cửa cao hơn tham chiếu 0,15%. Chỉ số DAX của Đức được cộng 1,02%. Chỉ số CAC 40 của Pháp giảm nhẹ 0,24%.

Tính tới 10h sáng nay 19/12, chỉ số Nikkei 225 của Nhật giảm 1,1%, chỉ số Hang Seng giảm 1,98%, chỉ số Shanghai Composite tăng 0,43%, chỉ số KOSPI giảm 0,05%.

Cùng giảm điểm trong nửa giờ giao dịch đầu tiên nhưng chỉ số chính tại hai sàn đã có diễn biến hoàn toàn khác nhau vào cuối ngày giao dịch. Tại HOSE, trong khi Vn-Index tăng 0,56% thì nhà đầu tư tại sản Hà Nội lại phải chứng kiến chỉ số HaSTC-Index thụt lùi 0,46% trong phiên cuối tuần.

Sau đợt khớp lệnh mở cửa của ngày giao dịch 19/12, xu hướng điều chỉnh giảm nhẹ đã khiến Vn-Index hạ 0,02%, tương đương 0,05 điểm, xuống còn 305,51 điểm. Tổng lượng cổ phiếu sang tên trong đợt một đạt 1,587 triệu chứng khoán, giá trị 36,21 tỷ đồng.

Dù giảm điểm trong nhưng diễn biến trên bảng điện tử trong đợt đầu vẫn rất "sáng". Trong khi đa số các blue chip giảm điểm hoặc đứng giá tham chiếu, vai trò chống đỡ thị trường đã được các mã trung bình và nhỏ thực hiện khá tốt. Nhiều cổ phiếu thuộc nhóm này như BTC, ANV, ASP, hay LCG bật xanh, thậm chí có khá nhiều mã tăng trần.

Một số nhà đầu tư đang đặt nhiều hy vọng vào việc Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản trong những ngày tới. Ảnh: Hoàng Hà.
Một số nhà đầu tư đang đặt nhiều hy vọng vào việc Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản trong những ngày tới. Ảnh: Hoàng Hà.

Bước vào đợt hai, chỉ trong khoảng nửa giờ, Vn-Index tăng một mạch từ giá trị giảm của đợt một lên mức 310 điểm, cao hơn tham chiếu gần 6 điểm. Những blue-chip xuống điểm hoặc đứng giá trong đợt một như FPT, DPM, HPG, STB, SSI, và VNM đều đồng loạt tăng mạnh.

Trong phiên giao dịch hôm qua và cả trong sáng nay, các nhà đầu tư đang rộ lên tin đồn lãi suất cơ bản có thể giảm trong một vài ngày tới. Phán đoán trên được đưa ra dựa trên tuyên bố của Chính phủ về gói giải pháp nhằm đối phó với suy giảm kinh tế, trong đó có những nội dung quan trọng như điều chỉnh lãi suất, giảm thuế, tỷ giá... nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp.

Với lý do trên, nhiều người đã tranh thủ ôm cổ phiếu để chờ tin tốt. Chỉ cần thông tin chính thức được công bố, nhà đầu tư sẽ bán ngay cổ phiếu để lướt sóng ngắn. Theo ông Phan Anh Tuấn, Phó tổng giám đốc Công ty Chứng khoán Vincom, giá cổ phiếu đang khá rẻ nên việc mua vào để đón trước thông tin điều chỉnh lãi suất, dù có rủi ro nhất định, cũng không phải là quyết định quá tồi. Tuy chưa thể dự đoán trước mức độ ảnh hưởng của việc giảm lãi suất, nếu có, nhưng nhà đầu tư hoàn toàn có thể trông đợi vào một đợt sóng ngắn nếu thông tin giảm lãi suất được đưa ra.

Kết thúc đợt khớp lệnh thứ hai, Vn-Index chốt tại 309,48 điểm, tăng 3,92 điểm, tương ứng với 1,28%. Tổng lượng khớp lệnh tính tới hết đợt hai đạt 8,36 triệu cổ phiếu giá trị 211,84 tỷ đồng.

Trong những phút khớp lệnh định kỳ cuối ngày, cán cân cung cầu không còn thiên lệch rõ ràng về bên mua như trong đợt hai nữa mà dần trở nên cân bằng hơn. Số điểm tích lũy được của Vn-Index từ đó giảm 2,22 điểm, tương ứng 0,72% so với đợt hai.

Kết thúc phiên, chỉ số chính của HOSE đóng cửa tại 307,26 điểm, được cộng 1,72 điểm, tương đương 0,56%. Tổng số cổ phiếu trao tay qua giao dịch báo giá đạt 11,09 triệu, giá trị khoảng 276,44 tỷ đồng.

Giao dịch thỏa thuận diễn ra khá sối động với 4,5 triệu cổ phiếu được khớp, giá trị 87,97 tỷ đồng. Trong đó, chỉ riêng cổ phiếu MCP của Công ty Bao bì Mỹ Châu đã đóng góp 3,5 triệu cổ phiếu.

Toàn sàn có 88 mã tăng, 37 mã đứng giá, và 48 mã giảm giá.

Trái với diễn biến tại HOSE, chỉ số HaSTC-Index của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội lại kết thúc tuần bằng một phiên giảm. Sau khi liên tục trồi sụt ở dưới giá tham chiếu và chỉ một lần chớm tăng điểm vào giữa phiên, HaSTC-Index đóng cửa tại 107,72 điểm, mất 0,5 điểm, tương ứng 0,46%. Tổng lượng cổ phiếu sang tên đạt 6,93 triệu, giá trị giao dịch 157,96 tỷ đồng.

Nhằm đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đang lan rộng, hỗ trợ các doanh nghiệp vượt qua giai đoạn khó khăn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, kích thích kinh tế trong nước phát triển…Ngân hàng nhà nước vừa ban hành các quyết định về điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, quy định mức lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam…

Cụ thể, chiều 19/12, ngân hàng nhà nước ban hành quyết định giảm lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam từ 10%/năm xuống 8,5%/năm. Theo đó, lãi suất cho vay tối đa của các tổ chức tín dụng bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng giảm từ 15%/năm xuống 12,75%/năm.

Ngoài ra, lãi suất tái cấp vốn giảm từ 11%/năm xuống 9,5%/năm; lãi suất tái chiết khấu giảm từ 9,0%/năm xuống 7,5%/năm; lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các ngân hàng giảm từ 11%/năm xuống 9,5%/năm.

Bên cạnh đó, lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng đồng Việt Nam đối với tổ chức tín dụng giảm từ 9%/năm xuống 8,5%/năm. Lãi suất tín phiếu Ngân hàng Nhà nước bằng đồng Việt Nam dưới hình thức bắt buộc giảm từ 13%/năm xuống 4,5%/năm.

Cùng ngày, ngân hàng nhà nước cũng đã ban hành quyết định về việc điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng đồng Việt Nam của các tổ chức tín dụng.

Cụ thể, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng bao gồm: Các ngân hàng thương mại Nhà nước (không bao gồm Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn), Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam, ngân hàng thương mại cổ phần đô thị, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, công ty tài chính là 5% trên tổng số dư tiền gửi phải dự trữ bắt buộc. Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn là 2% trên tổng số dư tiền gửi phải dự trữ bắt buộc. Ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn, Quỹ tín dụng nhân dân trung ương, ngân hàng hợp tác là 1% trên tổng số dư tiền gửi phải dự trữ bắt buộc.

Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi có kỳ hạn trên 12 tháng bao gồm: Các ngân hàng thương mại Nhà nước (không bao gồm Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn), Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam, ngân hàng thương mại cổ phần đô thị, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính là 2% trên tổng số dư tiền gửi phải dự trữ bắt buộc. Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn, Quỹ tín dụng nhân dân trung ương, ngân hàng hợp tác là 1% trên tổng số dư tiền gửi phải dự trữ bắt buộc

Được biết, đây là lần thứ 5 liên tiếp Ngân hàng nhà nước hạ lãi suất cơ bản từ 14%/năm xuống còn 8,5%/năm.

Phiên giao dịch cuối tuần, ngày 19/12, chứng khoán tiếp tục lên điểm, chỉ số VN-Index có phiên tăng điểm thứ 3 liên tiếp.

Như thường lệ, khởi động phiên giao dịch khá chậm chạp và trầm lắng. Kết thúc giao dịch đợt 1 phiên, chỉ số VN-Index chỉ lùi bước đôi chút khi giảm nhẹ 0,13 điểm (tương đương giảm 0,04%) xuống 305,43 điểm.

Khối lượng giao dịch vẫn ở mức thấp với hơn 1,5 triệu đơn vị được chuyển nhượng với giá trị là 35,367 tỷ đồng. Khá nhiều cổ phiếu không có giao dịch trong đợt 1 này.

Mức giảm điểm không đáng kể trong đợt 1 đã không gây nhiều áp lực khi bước sang đợt khớp lệnh liên tục, VN-Index đảo chiều tăng điểm trở lại ngay sau đó. Giao dịch sôi động hơn, VN-Index cũng gia tăng thêm điểm số có được khi một số cổ phiếu Blue-chips tăng giá.

Kết thúc giao dịch đợt 2 này, chỉ số VN-Index tăng 3,92 điểm (tương đương tăng 1,28%) lên 309,48 điểm. Khối lượng giao dịch sau đợt này đạt hơn 8,3 triệu đơn vị, tương đương với giá trị là 211,8 tỷ đồng.

Đợt khớp lệnh xác định giá đóng cửa chứng kiến một số mã cổ phiếu quay đầu giảm giá nhẹ, VN-Index theo đó cũng suy yếu nhưng vẫn tiếp tục giữ được màu xanh. Chung cuộc VN-Index tăng 1,7 điểm (tương đương tăng 0,56%) lên 307,26 điểm.

Như vậy, sau 5 phiên giao dịch tuần này, chỉ số VN-Index đã có 4 phiên tăng điểm và tổng số điểm có được sau 5 phiên này là 7,72 điểm, tức là đã tăng 2,58% so với mức đóng cửa cuối tuần qua.

Giao dịch phiên này tăng nhe so với phiên trước đó khi tổng khối lượng khớp lệnh của cổ phiếu và chứng chỉ quỹ phiên này đạt gần 11,1 triệu đơn vị với trị giá tương đương 276,44 tỷ đồng. Tăng 6% về khối lượng và tăng 12% về giá trị so với phiên hôm qua.

Thanh khoản thị trường trong tuần này được cải thiện hơn so với tuần trước đó khi lượng chứng khoán được khớp lệnh bình quân qua mỗi phiên tuần này đạt gần 11 triệu đơn vị so với hơn 9 triệu đơn vị của tuần trước đó.

50% số cổ phiếu phiên này tăng giá. Cụ thể, trong tổng số 169 mã cổ phiếu và 4 chứng chỉ quỹ niêm yết, đã có 88 mã tăng giá (trong đó 36 mã tăng giá trần), 48 mã giảm giá (với 13 mã giảm sàn), còn lại 37 mã đứng giá.

Nhóm 10 cổ phiếu vốn hoá lớn nhất sàn phiên này đã có những diễn biến trái ngược nhau, 4 mã tăng giá và 4 mã giảm giá, 2 mã còn lại đứng giá là FPT của Tập đoàn FPT và HPG của Hoà Phát. PPC của Nhịêt điện Phả Lại và PVF của Tài chính Dầu khí có mức tăng điểm dứt khoát khi luôn trong trạng thái dư mua còn nhiều mà dư bán không có. Đối lập thì 2 cổ phiếu VIC của Vincom và VPL của Vinpearl JSC đều giảm sàn.

Cổ phiếu tăng giá mạnh nhất về giá trị tuyệt đối phiên này là IMP của Imexphar (tăng 3.000 đồng), sau đó là SJS của Sudico (tăng 2.500 đồng), BT6 của Bê tông Châu Thới (tăng 2.000 đồng)...

Về khối lượng khớp lệnh của từng cổ phiếu, STB của Sacombank vẫn dẫn đầu thị trường (1,48 triệu cp). Các mã sau đó đều không có mã nào đạt trên 1 triệu đơn vị khi đứng thứ 2 là SSI của Chứng khoán Sài Gòn (0,97 triệu cp), DPM của Đạm Phú Mỹ (0,66 triệu cp), HSG của Hoa Sen Group (0,55 triệu cp), HPG (0,5 triệu cp)...

Chi tiết giao dịch ngày 19/12:
(Đơn vị: giá: 1.000đ; Đơn vị KL: 1 CP)

Mã CK

Giá cao nhất

Giá thấp nhất

Giá đóng cửa

Thay đổi

%Thay đổi

Khối lượng

ABT

26.2

25.5

26.2

1.2

4.80

36,000

ACL

20.3

19.4

20.3

0.9

4.64

15,380

AGF

16

15.6

15.6

-0.1

-0.64

7,380

ALP

9.3

9.2

9.2

0.0

0.00

37,610

ALT

18.7

18.6

18.7

0.8

4.47

2,220

ANV

19.8

19.8

19.8

0.9

4.76

15,490

ASP

12.3

12.3

12.3

0.5

4.24

51,340

BAS

10.2

9.4

10.2

0.4

4.08

140

BBC

14

13.6

14

0.3

2.19

16,720

BBT

3.8

3.8

3.8

-0.1

-2.56

13,210

BHS

15.5

15.5

15.5

0.0

0.00

400

BMC

70

68.5

69

-0.5

-0.72

16,590

BMI

16.1

15.5

16.1

0.7

4.55

26,170

BMP

30

28

29.5

0.5

1.72

6,770

BPC

10

10

10

0.4

4.17

3,540

BT6

43

40.6

43

2.0

4.88

11,980

BTC

21.8

19.8

21.8

1.0

4.81

3,620

CAN

10.2

9.6

10

0.1

1.01

14,430

CII

28.2

26.5

28.2

1.3

4.83

64,620

CLC

15

14.6

15

0.0

0.00

5,340

CNT

10.4

10.2

10.4

0.1

0.97

6,410

COM

35.3

34

35.3

0.3

0.86

24,370

CYC

9.6

9

9.6

0.3

3.23

12,520

DCC

9.9

9.4

9.4

-0.3

-3.09

4,090

DCL

30.9

30

30.9

1.4

4.75

23,410

DCT

8.3

8.1

8.3

0.1

1.22

33,310

DDM

11.8

11.3

11.8

0.3

2.61

30,260

DHA

18.2

17.9

18

-0.3

-1.64

8,830

DHG

123

119

120

0.0

0.00

19,390

DIC

13.8

13

13.8

0.6

4.55

9,230

DMC

52.5

50

52.5

0.5

0.96

5,020

DNP

9.4

9.3

9.4

0.4

4.44

11,300

DPC

9.9

9.5

9.9

0.0

0.00

1,310

DPM

37.1

35.1

37

1.6

4.52

659,880

DPR

30.5

29.1

29.5

-1.0

-3.28

22,390

DQC

16

15.6

15.7

-0.2

-1.26

30,250

DRC

17

16.6

17

0.0

0.00

2,920

DTT

9.9

9.5

9.9

-0.1

-1.00

2,030

DXP

19.6

19.3

19.6

0.9

4.81

14,030

DXV

6.3

6

6.2

0.1

1.64

26,310

FBT

17.2

16.7

17.2

0.3

1.78

49,560

FMC

11.7

11.6

11.7

0.2

1.74

21,050

FPC

19.5

18.3

19.5

0.3

1.56

310

FPT

53

51.5

52.5

0.0

0.00

373,670

GIL

14.5

14

14.5

0.3

2.11

22,150

GMC

14

14

14

-0.4

-2.78

300

GMD

28.9

27.6

28.9

1.3

4.71

93,540

GTA

8.2

8

8.1

0.2

2.53

5,710

HAP

14

13.7

13.8

0.1

0.73

19,870

HAS

11

10.5

10.5

-0.5

-4.55

4,880

HAX

14.8

14

14

-0.5

-3.45

2,060

HBC

15

14.3

14.7

0.1

0.68

11,900

HBD

9.8

9.5

9.8

0.3

3.16

900

HDC

21.5

20.7

20.7

-0.3

-1.43

7,630

HLA

12.9

12.1

12.1

-0.6

-4.72

5,790

HMC

11.6

11

11.6

0.5

4.50

19,290

HPG

30.5

29.5

30.2

0.0

0.00

500,770

HRC

24.5

24

24

0.0

0.00

18,420

HSG

21.7

20.8

21

-0.8

-3.67

554,220

HSI

10.5

10.2

10.5

0.0

0.00

8,300

HT1

13.6

13.2

13.6

0.5

3.82

43,030

HTV

9.4

9.3

9.3

0.0

0.00

8,660

ICF

6.4

6.3

6.4

-0.1

-1.54

54,280

IFS

7.8

7.2

7.8

0.3

4.00

4,810

IMP

72

71

72

3.0

4.35

49,280

ITA

27.9

27

27

-0.6

-2.17

131,590

KDC

27.6

26.9

27.2

0.6

2.26

85,130

KHA

12.3

12.1

12.1

0.0

0.00

45,830

KHP

9.7

9.5

9.5

-0.2

-2.06

11,710

KMR

5.8

5.5

5.8

0.1

1.75

7,980

KSH

13.5

13

13.5

0.6

4.65

46,440

L10

11.1

11

11.1

0.5

4.72

9,400

LAF

9.7

9.2

9.5

0.0

0.00

5,670

LBM

14.3

13.6

14.1

0.1

0.71

21,230

LCG

33.4

33.4

33.4

1.5

4.70

23,970

LGC

20

19

19.6

0.2

1.03

13,550

LSS

14

13.8

13.9

0.2

1.46

14,010

MAFPF1

3.6

3.5

3.6

0.0

0.00

29,360

MCP

14.5

13.8

14.5

0.2

1.40

19,010

MCV

8.6

8.3

8.6

0.1

1.18

13,120

MHC

7.5

7.4

7.5

-0.1

-1.32

30,620

MPC

11.4

10.9

10.9

-0.5

-4.39

42,340

NAV

9.8

9.6

9.8

0.0

0.00

5,020

NHC

28.8

27.5

28.8

1.3

4.73

10,530

NKD

25

24

24.7

-0.3

-1.20

2,970

NSC

22.2

22

22.2

0.0

0.00

9,260

NTL

34

33.5

34

1.6

4.94

112,680

OPC

26.5

25.8

26.5

0.4

1.53

35,930

PAC

33.9

30.7

30.7

-1.6

-4.95

85,560

PET

14.7

14

14.7

0.7

5.00

209,690

PGC

10

9.7

10

0.0

0.00

13,300

PIT

12.1

11.6

12

0.0

0.00

2,180

PJT

10.8

10.5

10.6

-0.1

-0.93

16,550

PMS

18.5

18.5

18.5

0.0

0.00

410

PNC

9.2

9

9

0.1

1.12

1,040

PPC

17.2

16.8

17.2

0.8

4.88

408,760

PRUBF1

4

3.8

3.9

0.0

0.00

47,860

PTC

9.1

8.6

8.6

-0.4

-4.44

7,860

PVD

70

67.5

67.5

-2.5

-3.57

113,450

PVF

18.4

18.4

18.4

0.8

4.55

252,760

PVT

16.2

16.2

16.2

0.7

4.52

218,420

RAL

20.4

20.3

20.4

0.9

4.62

217,440

REE

22.6

22

22.6

0.3

1.35

303,220

RHC

20.3

20.3

20.3

-0.7

-3.33

1,490

RIC

18.3

17

18

0.1

0.56

2,560

SAF

18.5

18

18

-0.5

-2.70

1,030

SAM

14.7

14.2

14.6

0.1

0.69

254,190

SAV

14.7

13.6

13.6

-0.5

-3.55

102,160

SBT

7.6

7.5

7.5

0.0

0.00

49,870

SC5

21.3

20

21.3

0.8

3.90

41,930

SCD

13.9

13.9

13.9

-0.6

-4.14

10

SDN

18

18

18

0.0

0.00

10

SFC

48

45.2

48

0.5

1.05

9,830

SFI

33.8

32.7

33.6

0.6

1.82

15,810

SFN

9.7

9.5

9.5

-0.2

-2.06

1,020

SGC

10.1

9.4

10.1

0.4

4.12

13,060

SGH

63

60

60

-3.0

-4.76

70

SGT

26.3

25.2

25.2

-1.1

-4.18

9,430

SHC

19.3

18.8

19.3

0.9

4.89

6,320

SJ1

11.5

11.5

11.5

0.0

0.00

300

SJD

14

13.7

14

0.0

0.00

13,990

SJS

56

53.5

56

2.5

4.67

219,480

SMC

20.8

20

20.3

0.0

0.00

34,240

SSC

18.2

18

18.2

0.2

1.11

6,000

SSI

31.4

30

31.4

1.2

3.97

969,670

ST8

19.7

19.1

19.6

-0.3

-1.51

5,130

STB

19.3

18.9

19.2

-0.1

-0.52

1,482,730

SZL

52.5

50.5

50.5

-2.5

-4.72

16,830

TAC

24.9

24.4

24.9

1.1

4.62

178,900

TCM

8.9

8.7

8.8

0.0

0.00

31,320

TCR

8

7.6

7.6

-0.4

-5.00

1,820

TCT

77

77

77

-1.0

-1.28

930

TDH

30.5

28.5

30.2

0.9

3.07

166,050

TMC

21.7

20.7

20.7

-1.0

-4.61

1,570

TMS

38.5

38.5

38.5

-0.5

-1.28

10

TNA

16.6

16.6

16.6

-0.8

-4.60

3,870

TNC

8.4

8.1

8.3

-0.1

-1.19

10,210

TPC

7.3

7

7.2

0.2

2.86

61,940

TRA

42.9

42.5

42.5

-0.5

-1.16

5,650

TRC

24

23

23

-1.0

-4.17

52,320

TRI

8

7.7

8

0.2

2.56

19,740

TS4

8.2

7.9

8

0.1

1.27

2,410

TSC

32.5

31.6

32

0.1

0.31

9,830

TTC

8.1

7.7

8.1

0.0

0.00

12,040

TTF

11.8

11.1

11.8

0.5

4.42

120,310

TTP

17.6

17.4

17.5

0.0

0.00

9,900

TYA

11

10.9

10.9

0.0

0.00

9,620

UIC

9.5

9

9.5

0.3

3.26

2,590

UNI

12.1

12

12.1

0.5

4.31

20,950

VFC

7.4

6.9

7.3

0.2

2.82

22,470

VFMVF1

7.6

7.5

7.6

0.0

0.00

74,390

VFMVF4

4.1

4

4.1

0.0

0.00

176,810

VGP

20.3

19.5

19.5

-0.8

-3.94

540

VHC

19.3

18.2

19

0.5

2.70

160

VHG

6.1

6.1

6.1

0.2

3.39

1,210

VIC

84.5

80.5

80.5

-4.0

-4.73

15,100

VID

9.3

9

9.3

0.0

0.00

22,200

VIP

10.8

10.4

10.6

0.1

0.95

367,450

VIS

23.8

23

23

-0.8

-3.36

4,710

VKP

6.9

6.4

6.8

0.1

1.49

22,040

VNA

14

13.7

14

0.0

0.00

52,810

VNE

6.6

6.1

6.5

0.2

3.17

104,050

VNM

86

83

84

1.0

1.20

177,520

VNS

17.3

17

17.2

-0.1

-0.58

11,510

VPK

8

7.6

8

0.1

1.27

1,530

VPL

79

76

76

-3.5

-4.40

23,600

VSC

49

47.5

48

0.0

0.00

20,270

VSG

10.9

10

10.6

0.2

1.92

11,200

VSH

27.8

27.2

27.2

-0.3

-1.09

79,320

VTA

6.5

6.2

6.5

0.0

0.00

6,740

VTB

14.2

14.2

14.2

0.5

3.65

120

VTC

8.5

8.3

8.5

0.0

0.00

560

VTO

12.2

11.9

12

0.0

0.00

114,250


ATPVietnam