Chạy đua gom cổ phiếu để hưởng cổ tức

Friday, November 28, 2008 |

Nhiều cổ phiếu trong mùa cổ tức cuối năm nhận được sự quan tâm của nhà đầu tư, khiến khối lượng giao dịch những mã này tăng đột biến, bỏ qua sự tuột dốc chung trên thị trường.

Mức đỉnh cổ tức năm 2008 hiện thuộc về công ty cổ phần may Phú Thịnh - Nhà Bè, với tỷ lệ 40% (một cổ phần được trả 4.000 đồng). Kể từ khi thông tin trên được công bố, giá cổ phiếu NPS (tại HaSTC) tăng 8 phiên liên tiếp (17/11-26/11), leo từ 17.400 đồng lên 23.100 đồng. Khối lượng khớp lệnh cũng nâng dần qua từng phiên giao dịch, từ mức ít ỏi 1.000 vụt lên 214.000 cổ phiếu.

Một "người anh em" khác trên HaSTC cũng trong tầm ngắm nhà đầu tư gần 10 phiên qua là MIC. Với động thái tạm ứng cổ tức đợt một 17% bằng tiền mặt, mã này đã ngự trị ở bậc tăng điểm đến 8 ngày (18/11-27/11). Giá MIC (công ty cổ phần kỹ nghệ khoáng sản Quảng Nam) từ 62.400 đồng nhảy vọt 74.000 đồng.

Diễn biến tương tự cũng xảy ra với lịch trình DNP thuộc công ty cổ phần nhựa xây dựng Đồng Nai. Thông tin trả cổ tức năm 2008 chính thức công bố tại HOSE cách đây 3 ngày, thúc mã này đi lên liên tục 4 phiên (24/11-27/11). Đáng chú ý, lượng đặt mua DNP những phiên này áp đảo hoàn toàn số bán ra, nhu cầu gom hàng của nhà đầu tư đã đẩy giá cổ phiếu từ 10.200 (24/11) lên 11.600 đồng vào chốt ngày 27/11.

Danh mục cổ phiếu được trả cổ tức nằm trong tầm ngắm nhiều nhà đầu tư. Ảnh: Đ.Q.

Trong khi chỉ số hai sàn không ngừng dò đáy mới với lượng giao dịch đi xuống thì một số mã chứng khoán đi ngược lại xu hướng này. Đứng ở góc độ nhà đầu tư, anh Minh Quân, sàn Rồng Việt lý giải, mức chi trả cổ tức giúp nhà đầu tư gỡ gạc phần nào những hao hụt từ việc giá cổ phiếu sụt. Tuy nhiên, những cổ phiếu anh chọn hiện nay ngoài việc trả cổ tức cao còn phải có tính thanh khoản, kết quả kinh doanh khả quan... Với tiêu chí như vậy, giá cổ phiếu sau khi tham chiếu lại dù sụt giảm nhưng sẽ không bị dìm sâu. Vì nhà đầu tư thấy được triển vọng phát triển của doanh nghiệp để sẵn sàng gom vào, kéo cổ phiếu khỏi con dốc rơi không phanh sau mùa cổ tức.

Riêng với giới đầu tư lướt sóng, cơ hội "làm ăn" đối với danh mục cổ phiếu có chi trả cổ tức cũng xôm tụ không kém. Nhà đầu tư Hoài Thanh, sàn Cao Su đón đầu giá ACB sẽ thẳng tiến đi lên cho đến ngày giao dịch không hưởng quyền (4/12) nhận cổ phiếu thưởng. Theo đó, cổ đông hiện hữu sở hữu 100 cổ phần sẽ nhận 36,636 cổ phần. Anh Thanh bán ra 1.000 cổ phiếu ACB vào hôm 20/11, thu lời 700 đồng một cổ phiếu sau gần 1 tuần sở hữu. Anh dự định sẽ đón đầu cơ hội mua vào ở mức giá điều chỉnh xuống sau khi chia cổ tức.

Trưởng bộ phận phân tích Công ty chứng khoán SME chi nhánh TP HCM, ông Hoàng Thạch Lân lý giải hai trường hợp đưa đến quyết định thanh toán cổ tức hiện nay. Thứ nhất, doanh nghiệp vẫn xoay sở được vốn cho hoạt động tái đầu tư, mức tạm ứng được xem là sự san sẻ quyền lợi với khách hàng. Qua đó, giúp nhà đầu tư "chạy" thuế được đồng nào hay đồng ấy.

Thứ hai, công ty sẽ bị "hụt chân" nếu chi khoản tiền này, nhưng vẫn "bấm bụng" thực hiện, làm hài lòng nhà đầu tư, ổn định giá cổ phiếu. Theo ông, nhà đầu tư cần xem xét, với tỷ lệ chia đó, doanh nghiệp có đủ sức để tiếp tục phát triển trong năm tới. Chưa kể, những năm sau đó, nếu doanh nghiệp chia ở tỷ lệ thấp hơn năm 2008, nhà đầu tư chắc chắn sẽ "hụt hẫng", ảnh hưởng không tốt đến hình ảnh công ty.

Mới đây, Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính Việt Nam (VAFI) ra khuyến cáo doanh nghiệp không nên chạy đua theo mốt trả cổ tức cao. Dù công ty kinh doanh hiệu quả, tỷ suất lợi nhuận lớn, nhưng vẫn còn phải lo thực hiện các dự án cũng như đảm bảo tình hình tài chính lành mạnh. Vấn đề này nên căn cứ vào thực trạng của từng công ty chứ không nên chạy theo phong trào.

Khác với mọi năm, các doanh nghiệp niêm yết dồn dập thanh toán cổ tức năm 2008 cho nhà đầu tư sớm hơn dự kiến. Hiện mức cao nhất có thể kể đến NPS (40%), ACL cùng BMC (35%), ABT (30%) và một loạt công ty chi trả từ 10%-29%. Trước đó, thị trường khá sững sờ khi công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Hà Nội (HANCIC) quyết định tạm ứng đợt 2 là 350% (mỗi cổ phần nhận 35.000 đồng). Tuy nhiên, kế hoạch này đã không thành hiện thực khi cổ đông lớn là Tổng công ty đầu tư xây dựng Hà Nội bác bỏ.

Trong khi, chứng khoán Mỹ ngừng giao dịch để nghỉ lễ Tạ ơn, thị trường châu Á và châu Âu lại tiếp đà hồi phục của nhiều phiên trước. Tuy nhiên, thị trường chứng khoán Ấn Độ phải ngừng giao dịch sau khi xảy ra cuộc tấn công tại Mumbai.

Đà tăng điểm của chứng khoán châu Âu tiếp tục được duy trì trong phiên hôm qua 27/11. Chỉ số FTSE 100 của anh tăng 1,8% lên mức 4.226,10 điểm. Chỉ số DAX của Đức tiến thêm 2,3%, đóng cửa tại 4.665,27 điểm. Chỉ số CAC 40 của Pháp chốt tại 3.250,39 điểm, cao hơn phiên trước 2,5%.

Điểm nhấn trong phiên vừa qua là sự khởi sắc của khối ngân hàng tại nhiều quốc gia châu Âu, bao gồm Standard Chartered PLC, Deutsche Bank AG, UBS AG và Societe Generale SA. Bên cạnh đó, nhờ giá dầu tăng trở lại, cổ phiếu năng lượng như BP, Royal Dutch Shell, và Total SA cũng lên theo.

Trước đó, thị trường châu Á trải qua một ngày giao dịch khá thành công. Tại Nhật, chỉ số Nikkei 225 tiến bước 1,95% lên thành 8.373,39 điểm. Chỉ số Hang Seng của Hong Kong đóng cửa tại 13.441,33 điểm, cao hơn tham chiếu 0,54%. Chỉ số Shanghai Composite của Trung Quốc kết thúc ngày giao dịch tại 1.917,86 điểm, cộng thêm 1,05%. Chứng khoán Hàn Quốc ghi nhận mức tăng 3,27% trên chỉ số KOSPI, từ đó đưa chỉ số này lên mức 1.063,48 điểm.

Phiên tăng của thị trường Trung Quốc là phản ứng của giới đầu tư trước thông tin Chính phủ nước này hạ lãi suất cũng như sử dụng hàng tỷ đôla để kích thích kinh tế. Quốc gia đông dân nhất thế giới cũng hạ mục tiêu tăng trưởng năm 2009 từ 9,4% xuống còn 7,5%.

Thị trường chứng khoán châu Á đã có phiên tăng thứ 5 liên tiếp. Ảnh:gulf-times.com.
Thị trường chứng khoán châu Á đã có phiên tăng thứ 5 liên tiếp. Ảnh: gulf-times.com.

Kế hoạch của Trung Quốc đã khiến giá hàng hóa cơ bản và cổ phiếu khai khoáng, vận tải tại nhiều thị trường khác nhau trong khu vực đua nhau tăng điểm. Theo các chuyên gia, đó là do nhà đầu tư dự đoán nhu cầu của Trung Quốc với kim loại, dầu mỏ, các loại tài nguyên khác, cũng như các dịch vụ vận tải kèm theo sẽ gia tăng khi chương trình kích thích kinh tế được thực hiện.

Tập đoàn khai mỏ BHP Billiton của Australia tăng 5,7%. Nhà sản xuất thép số hai Trung Quốc, Angang lên 7,3%. Tập đoàn vận tải lớn nhất thế giới, Mitsui O.S.K. Lines Ltd của Nhật nhẩy vọt 7,4%.

Tại Ấn Độ, cuộc tấn công tại Mumbai, trung tâm tài chính của quốc gia, làm 101 người thiệt mạng đã khiến thị trường chứng khoán phải tạm ngừng giao dịch.

Tại Thái Lan, chỉ số chính của thị trường sụt giảm 1% sau khi nhà chức trác đóng cửa sân bay thứ 2 tại Bangkok trước làn sóng biểu tính của những người chống Chính phủ. Hiện tại, giao thông đường không tại Bangkok gần như đã tê liệt hoàn toàn do khủng hoảng chính trị.

Giá dầu mất 0,47 đôla, kết thúc ngày giao dịch tại 53,97 đôla một thùng.

Tính tới 9h15 sáng nay 28/11, chỉ số Nikkei tăng 0,37%, chỉ số Hang Hai sụt nhẹ 0,01%, chỉ số Shanghai Composite mất 1,44%, chỉ số KOSPI tăng 0,32%

Sau những phiên lạc nhịp với chứng khoán thế giới, Vn-Index hôm nay đã bật dậy mạnh mẽ, với mức tăng ấn tượng, 11,2 điểm (3,68%), chốt tuần ở 314,74.

Màn dạo đầu của Vn-Index phiên sáng nay ấn tượng nhất trong nửa tháng trở lại đây khi chỉ số này hãm phanh và thẳng tiến đi lên 7,82 điểm, tạm ngưng hành trình dò đáy để đạt mức 311,66 điểm. Sau những cảnh giác với các thông tin, diễn biến thị trường chứng khoán trong và ngoài nước, nhà đầu tư đã không còn thờ ơ khi hàng loạt cổ phiếu chào hàng với mức giá mà cách đây vài tháng không ai ngờ tới. Động thái nới "hầu bao" của nhà đầu tư khiến khối lượng giao dịch cải thiện gần gấp đôi đợt 1 phiên liền trước, với 3 triệu chứng khoán, tương đương giá trị 76,87 tỷ đồng.

Sự khởi đầu ấn tượng đã thúc lệnh mua vào sàn mạnh hơn, áp đảo số bán ra. Các cổ phiếu không phân biệt lớn nhỏ đều làm cuộc cách mạng đảo chiều, hòa vào dòng chảy tăng giá. Trong đó, có nhiều mã cao hết biên độ cho phép, hậu thuẫn cho Vn-Index đứng vững mức tăng gần 10 điểm. Tuy nhiên, nhà đầu tư vẫn hết sức thận trọng cho các quyết định mua bán của mình, do chưa thể xác định được đây đã là vùng đáy. Khối lượng giao dịch do vậy vẫn "dè chừng" (10,7 triệu chứng khoán, tương đương 271,4 tỷ đồng), chứ chưa đột phá dù Vn-Index cách mốc 300 không xa.

Vn-Index phiên cuối tuần tăng vọt 11,2 điểm để tạo khoảng cách an toàn hơn với mốc 300. Ảnh: H.P.

15 phút đợt giao dịch cuối càng khẳng định chỉ số chứng khoán sàn TP HCM trải qua phiên giao dịch thành công khi tổng quỹ được cộng thêm 11,2 điểm, hòa cùng vũ điệu đi lên của các chỉ số châu Âu, châu Á. Đã có 12,2 triệu cổ phiếu và chứng chỉ quỹ khớp lệnh, giao dịch thỏa thuận ghi nhận thêm 0,72 triệu chứng khoán chuyển nhượng, nâng tổng mức thực hiện trong ngày lên 12,9 triệu.

Chuyên gia tài chính, thạc sĩ Đinh Thế Hiển nhận định, sự phục hồi trở lại của Vn-Index hôm nay đơn thuần do quá trình suy giảm sâu kéo dài, chứ không phải phản ứng tức thì của thông tin nào. Vn-Index ở gần mốc 300 nhưng thanh khoản thị trường không thật sự bùng nổ. Theo ông Hiển, do tâm lý nhà đầu tư e ngại Vn-Index còn đi xuống nữa, với mức giá hứa hẹn còn hấp dẫn hơn cho nên lượng mua vào chỉ ở mức lình xình. Tuy nhiên, những nhà đầu tư bản lĩnh, chọn hướng đầu tư theo giá trị thì việc gom vào quanh mốc 300 hoàn toàn có khả năng sinh lời lớn trong 1-2 năm tới.

Nhận định xu hướng sắp tới, ông Hiển cho biết, sức cầu thị trường hiện chủ yếu dựa vào nhà đầu tư cũ và khối ngoại. Thế nhưng, động thái bán ròng của khối ngoại khiến lực mua trở nên hao hụt. Trong khi đó, nguồn cung lại luôn thường trực, nhất là mùa thanh toán cổ tức những tháng cuối năm, nên có khả năng Vn-Index chọc thủng mốc 300.

Chung cuộc có 149 cổ phiếu tăng, 5 mã đứng và chỉ 17 mã tuộc dốc. Nhóm 10 cổ phiếu có giá trị vốn hóa thị trường lớn hòa cùng một nhịp, tăng dao động từ 700 đến 3.500 đồng một cổ phiếu.

Vẫn dẫn đầu về khối lượng giao dịch, STB phiên này có 1,7 triệu cổ phiếu sang tên, kế đến là PPC (0,89 triệu cổ phiếu), DPM (0,81 triệu cổ phiếu).

Sau nhiều lo lắng khi HaSTC-Index ngự trị dưới "phao" 100 điểm suốt 2 phiên liền, nhà đầu tư hôm nay đã thở phào khi chỉ số này tiến mạnh 6,59 điểm (6,75%)để leo lên 104,2 điểm. Tổng khối lượng giao dịch toàn thị trường đạt gần 10 triệu chứng khoán, tương đương giá trị 252,4 tỷ đồng.

Phiên giao dịch cuối tuần và cũng là phiên cuối cùng của tháng 11, thị trường chứng khoán Việt Nam bất ngờ bật mạnh trở lại trước ngưỗng điểm 300 đã gần kề.

Thông tin được cho có tính tích cực nhất tại thời điểm này là việc Chính phủ đề nghị việc lùi thời gian thực hiện Luật thuế thu nhập cá nhân đến 1/7 thay vì kế hoạch dự kiến thực hiện đầu năm 2009 tới đây.

Ngay trong đợt 1, số điểm để mất trong phiên hôm qua đã được khôi phục gần hết, theo đó kết thúc giao dịch đợt 1, chỉ số VN-Index tăng mạnh 7,82 điểm (tương đương tăng 2,57%) lên 311,36 điểm.

Khối lượng giao dịch là điều đáng chú ý khi trong đợt khớp lệnh xác định giá mở cửa này, khối lượng đã tăng lên hơn 3 triệu đơn vị với giá trị đạt 76,876 tỷ đồng.

Những giằng co xuất hiện trong đầu đợt khớp lệnh liên tục tuy nhiên mức tăng khá mạnh vẫn được duy trì tốt, tâm lý ngại mắc bẫy giá lên được giải toả, VN-Index theo đó cũng tiếp tục tăng mạnh trước sức mua tăng lên khá nhiều.

Kết thúc đợt 2, chỉ số VN-Index đã tăng 10,55 điểm (tương đương tăng 3,47%) lên 314,09 điểm. Tổng khối lượng giao dịch sau đợt này đạt 10,75 triệu đơn vị với giá trị là 271,457 tỷ đồng.

Xu hướng tăng điểm mạnh tiếp tục được duy trì đến hết phiên và chung cuộc, chỉ số VN-Index đảo chiều tăng mạnh 11,2 điểm (tương đương tăng 3,68%) lên 314,74 điểm, tạo một khoảng cách an toàn hơn đối với ngưỡng 300 điểm.

Như vậy sau 1 tuần giao dịch nữa qua đi với 2 phiên tăng và 3 phiên giảm điểm, VN-Index để mất 4,22 điểm, tức là đã giảm 1,32% so với mức điểm đóng cửa cuối tuần trước. Khối lượng bình quân được khớp lệnh trong 1 phiên đạt trên 11 triệu đơn vị

Khối lượng giao dịch phiên này vẫn duy trì tương đương với phiên trước đó. Tổng khối lượng cổ phiếu và chứng chỉ quỹ được khớp lệnh thành công phiên này đạt 12,26 triệu đơn vị, giá trị là 316,11 tỷ đồng. Khối lượng chưa tăng do thị trường tăng điểm mạnh khiến bên bán hạn chế bán ra trong khi đó bên mua phiên này đã lán át hoàn toàn.

Diễn biến giá cổ phiếu hoàn toàn đảo ngược so với phiên trước đó khi gần 90% số mã chứng khoán niêm yết tăng giá.

Trong tổng số 167 mã cổ phiếu và 4 chứng chỉ quỹ niêm yết, đã có 149 mã tăng giá (trong đó 97 mã tăng giá trần), chỉ có 16 mã giảm giá (với 7 mã giảm sàn), 5 mã đứng giá và 1 mã không có giao dịch là SGH của CTCP Khách sạn Sài Gòn.

Nhóm 10 cổ phiếu vốn hoá lớn nhất sàn toàn bộ đều tăng giá trong đó có đến 7 mã đạt mức giá trần như: DPM của Đạm Phú Mỹ, VNM của Vinamilk, STB của Sacombank, FPT của Tập đoàn FPT, HPG của Hoà Phát...và các mã này đều không có dư bán khi kết thúc giao dịch.

Trong khi đó số ít cổ phiếu giảm giá là các mã: TRA của Traphaco, LCG của CTCP Licogi 16, HLA của Hữu Liên Á Châu, NKD của Kinh Đô miền Bắc, SJ1 của Thuỷ sản số 1, ABT của Thuỷ sản Bến Tre hay PAC của Pinaco...

Về khối lượng giao dịch, STB vẫn dẫn đầu thị trường (1,74 triệu cp), PPC tăng mạnh (0,89 triệu cp), DPM (0,82 triệu cp), SJS của Sudico (0,66 triệu cp), HPG (0,58 triệu cp), VIP của VIPCO (0,48 triệu cp)...

Chi tiết giao dịch ngày 28/11:
(Đơn vị giá: 1.000đ; Đơn vị KL: 1 CP)

Mã CK

Giá cao nhất

Giá thấp nhất

Giá đóng cửa

Thay đổi

%Thay đổi

Khối lượng

ABT

25

23.9

23.9

-1.1

-4.40

50,700

ACL

22.8

22

22.8

0.8

3.64

6,870

AGF

16.4

15.9

16

0.1

0.63

64,750

ALP

8.9

8.3

8.9

0.4

4.71

32,760

ALT

24

23.9

24

0.7

3.00

2,270

ANV

17.5

16.8

17.5

0.8

4.79

57,810

ASP

11.3

10.9

11.2

0.3

2.75

32,000

BAS

12.5

11.6

12.4

0.2

1.64

160

BBC

14.7

14.5

14.7

0.7

5.00

24,070

BBT

5.3

5.3

5.3

0.2

3.92

18,590

BHS

14.8

14.2

14.8

0.0

0.00

28,830

BMC

70

70

70

3.0

4.48

11,780

BMI

18.5

18.3

18.5

0.8

4.52

13,610

BMP

28.8

28.6

28.7

1.2

4.36

11,960

BPC

13

12.6

13

0.3

2.36

7,240

BT6

41.7

41.7

41.7

-2.1

-4.79

1,270

BTC

23.5

22

23.5

0.5

2.17

50

CAN

11

10.6

11

0.3

2.80

23,000

CII

24.7

24.5

24.7

1.1

4.66

30,790

CLC

16.7

15.2

16.5

0.5

3.13

9,510

CNT

11.7

11.4

11.7

0.2

1.74

12,340

COM

35

32.5

34.3

0.3

0.88

13,010

CYC

9.6

9.5

9.6

0.4

4.35

10,260

DCC

10.4

9.9

10

0.0

0.00

24,520

DCL

27.5

27.5

27.5

1.3

4.96

10,240

DCT

9.1

9

9.1

0.4

4.60

21,200

DDM

13.9

13.8

13.9

0.6

4.51

15,710

DHA

20.2

19.8

20

0.7

3.63

5,740

DHG

118

115

117

0.0

0.00

25,710

DIC

15.9

15.2

15.8

0.6

3.95

3,040

DMC

51

49

51

2.0

4.08

3,540

DNP

12.1

11.6

12.1

0.5

4.31

60,030

DPC

10.5

10.2

10.5

0.5

5.00

3,900

DPM

37.2

36.5

37.2

1.7

4.79

815,300

DPR

30.4

30

30.4

1.4

4.83

76,730

DQC

17.2

17

17.2

0.8

4.88

80,940

DRC

18

17.3

18

0.8

4.65

23,900

DTT

10.2

10.2

10.2

-0.2

-1.92

2,000

DXP

21.6

21.5

21.6

1.0

4.85

40,480

DXV

7.1

7.1

7.1

0.3

4.41

59,570

FBT

16

15.1

16

0.5

3.23

4,400

FMC

11.9

11.5

11.9

0.5

4.39

38,770

FPC

19.7

19.7

19.7

0.4

2.07

2,310

FPT

50.5

50

50.5

2.0

4.12

339,130

GIL

14.8

14.7

14.8

0.7

4.96

13,340

GMC

15.8

15.6

15.6

0.4

2.63

410

GMD

30.7

30.7

30.7

1.4

4.78

7,680

GTA

9.3

8.6

9.2

0.3

3.37

2,990

HAP

18.9

18.5

18.9

0.9

5.00

17,010

HAS

11.6

11.4

11.6

0.5

4.50

8,790

HAX

15

14.3

15

0.7

4.90

4,520

HBC

15

15

15

0.7

4.90

21,210

HBD

12.1

12.1

12.1

0.5

4.31

3,800

HDC

23.6

22.2

23.6

1.1

4.89

13,290

HLA

14.5

13.6

13.6

-0.7

-4.90

89,910

HMC

13

12.8

13

0.6

4.84

11,150

HPG

30.4

29

30.4

1.4

4.83

583,460

HRC

31.5

31.2

31.5

0.5

1.61

43,270

HSI

13.8

13.5

13.7

0.2

1.48

26,370

HT1

13.4

12.7

13.4

0.5

3.88

18,160

HTV

9.4

9

9.1

-0.1

-1.09

12,570

ICF

7.9

7.8

7.9

0.3

3.95

19,510

IFS

8.2

8

8.2

0.2

2.50

3,850

IMP

67.5

66

66

0.0

0.00

11,330

ITA

30.3

29.6

30.3

1.4

4.84

189,780

KDC

31.5

30.2

31.5

0.9

2.94

100,000

KHA

11.3

11.3

11.3

0.5

4.63

30,240

KHP

10.5

10.4

10.5

0.5

5.00

34,200

KMR

6.4

6.3

6.4

0.3

4.92

41,190

KSH

13

12

13

0.6

4.84

24,950

L10

12

11.6

12

0.5

4.35

3,200

LAF

11.5

11.1

11.5

0.5

4.55

54,830

LBM

15.7

15.4

15.7

0.7

4.67

79,220

LCG

32.3

32.3

32.3

-1.6

-4.72

2,110

LGC

15.4

14.7

15.4

0.7

4.76

7,310

LSS

15.5

15

15.4

0.4

2.67

36,750

MAFPF1

4

3.8

4

0.1

2.56

30,590

MCP

14.2

13.8

13.8

0.2

1.47

22,980

MCV

9.7

9.5

9.7

0.4

4.30

27,970

MHC

9.3

8.9

9.3

0.4

4.49

10,770

MPC

11.7

11.4

11.7

0.5

4.46

15,110

NAV

13.8

13.6

13.7

0.2

1.48

17,890

NHC

40.9

37.3

37.3

-1.7

-4.36

9,600

NKD

31.8

29.8

29.8

-1.5

-4.79

31,950

NSC

24.9

23.8

24.8

1.0

4.20

14,770

NTL

35.7

35

35.7

1.7

5.00

42,060

OPC

26.8

26

26

0.2

0.78

35,720

PAC

40

38

38.1

-1.9

-4.75

42,620

PET

14.2

14

14.2

0.6

4.41

325,370

PGC

10.8

10.5

10.6

0.2

1.92

48,250

PIT

13.5

13

13.5

0.6

4.65

7,560

PJT

12.3

12

12.3

0.5

4.24

8,340

PMS

19

18.5

19

0.1

0.53

600

PNC

10

9.9

9.9

0.3

3.13

12,560

PPC

18

17.2

18

0.8

4.65

892,630

PRUBF1

4

4

4

0.1

2.56

179,150

PVD

73

71

72.5

2.5

3.57

249,600

PVF

15.9

15.7

15.9

0.7

4.61

222,410

PVT

16.1

15.7

16.1

0.7

4.55

421,500

RAL

24.8

24.5

24.8

0.3

1.22

50,100

REE

22.6

22.4

22.6

1.0

4.63

106,310

RHC

23.9

22.6

23.9

0.4

1.70

19,400

RIC

18.5

18.5

18.5

0.4

2.21

3,100

SAF

20.4

20.4

20.4

0.9

4.62

9,350

SAM

15.4

15.3

15.4

0.7

4.76

207,590

SAV

13.4

13.3

13.4

0.6

4.69

10,700

SBT

9.2

9

9.2

0.4

4.55

85,650

SC5

23.5

22.5

23.5

1.1

4.91

55,800

SCD

15.5

14.6

15.5

0.4

2.65

220

SDN

17.5

17.5

17.5

0.8

4.79

630

SFC

41.2

40

40

0.7

1.78

3,410

SFI

36.6

36

36.6

1.7

4.87

12,220

SFN

10.5

10

10

-0.3

-2.91

110

SGC

11.9

11.8

11.8

0.4

3.51

3,930

SGH






0

SGT

24.6

24.4

24.6

0.9

3.80

21,500

SHC

20.9

20.5

20.9

0.9

4.50

3,830

SJ1

15.1

13.7

13.7

-0.7

-4.86

1,270

SJD

14.4

14

14.4

0.6

4.35

15,970

SJS

56.5

54

56.5

2.5

4.63

655,020

SMC

20

19.8

20

0.9

4.71

20,470

SSC

19.3

19

19.3

0.3

1.58

24,610

SSI

28.5

28.5

28.5

1.3

4.78

197,430

ST8

21.9

21.8

21.9

1.0

4.78

3,560

STB

20.1

19.7

20.1

0.9

4.69

1,737,900

SZL

60

57

60

0.5

0.84

33,170

TAC

22.5

22.5

22.5

1.0

4.65

93,890

TCM

9.5

9.4

9.5

0.4

4.40

47,940

TCR

9.2

9.1

9.1

0.3

3.41

1,480

TCT

80

80

80

3.5

4.58

4,280

TDH

27.5

27.1

27.5

1.3

4.96

86,040

TMC

22.1

22

22.1

1.0

4.74

7,610

TMS

37.8

36

37.8

0.4

1.07

1,000

TNA

18

16.9

17.9

0.7

4.07

10,890

TNC

9.8

9.5

9.8

0.4

4.26

20,440

TPC

7.8

7.7

7.8

0.3

4.00

37,010

TRA

57.5

57.5

57.5

-3.0

-4.96

150

TRC

28.6

27.3

28.6

1.3

4.76

175,010

TRI

8.4

8.2

8.4

0.4

5.00

24,480

TS4

9.2

8.7

9.2

0.4

4.55

5,690

TSC

34.2

32.6

34.2

1.6

4.91

123,630

TTC

9.2

8.8

9.2

0.2

2.22

15,490

TTF

15.5

14.8

14.8

0.0

0.00

32,910

TTP

18.5

18.3

18.5

0.8

4.52

62,290

TYA

11.9

11.4

11.9

0.5

4.39

34,970

UIC

10.5

10.1

10.5

0.5

5.00

8,400

UNI

14.3

14.1

14.3

0.6

4.38

6,250

VFC

8

7.8

8

0.3

3.90

12,860

VFMVF1

8

7.8

8

0.3

3.90

162,520

VFMVF4

4.6

4.3

4.3

-0.1

-2.27

312,740

VGP

21

21

21

0.8

3.96

210

VHC

18.6

18

18.5

0.6

3.35

5,020

VHG

8

7.6

7.6

-0.3

-3.80

68,870

VIC

82

80.5

81

0.5

0.62

54,050

VID

9.6

9.4

9.6

0.2

2.13

26,710

VIP

11

10.6

11

0.5

4.76

478,290

VIS

23.4

22.3

23.4

1.1

4.93

9,930

VKP

7.6

7.6

7.6

0.3

4.11

9,050

VNA

18.9

18.1

18.7

-1.4

-6.97

45,730

VNE

6.3

6

6.3

0.3

5.00

33,140

VNM

76.5

76

76.5

3.5

4.79

281,340

VNS

19.4

18.7

19.4

0.5

2.65

60,330

VPK

8.5

8.5

8.5

0.4

4.94

50

VPL

100

97.5

100

2.5

2.56

49,080

VSC

56.5

54

56.5

2.5

4.63

10,670

VSG

12.1

11.9

12.1

0.5

4.31

8,650

VSH

25.4

25.1

25.4

1.2

4.96

110,740

VTA

7.1

7

7

0.2

2.94

1,090

VTB

15.6

14.2

15.6

0.7

4.70

2,770

VTC

9

8.8

9

-0.1

-1.10

1,240

VTO

12.4

12.1

12.4

0.5

4.20

125,100

ATPVietnam