Dow Jones xuống dưới 8.000 điểm lần đầu tiên sau 5 năm

Thursday, November 20, 2008 |

Các chỉ số chính giảm mạnh, từ đó đẩy Dow Jones xuống dưới 8.000 điểm lần đầu tiên kể từ tháng 3/2003 do nỗi lo về kinh tế bất ổn cũng như tương lai hết sức mong manh của các nhà sản xuất xe hơi.

Chỉ số Dow Jones đổ dốc 5,07%, xuống mức 7.997,28 điểm. Chỉ số Nasdaq giảm 6,53%, chốt tại 1.386,42 điểm. Diễn biến của chỉ số Standard & Poor 500 cũng có cùng kịch bản, bị trừ 6,12%, đóng cửa tại 806,58 điểm. Phiên thứ ba, 19/11 trên đã làm bốc hơi toàn bộ số điểm cộng mà các chỉ số chính tích lũy được trong những phiên trước.

Tâm điểm của phiên giao dịch kinh hoàng này là nỗi lo về số phận của ngành công nghiệp xe hơi. Ba “cây đại thụ” General Motor (GM), Ford, và Chrysler đang đứng trước nguy cơ phá sản vì làm ăn thua lỗ. Khả năng này nếu xảy ra sẽ là một đòn mạnh giáng vào kinh tế Mỹ, vốn đang lao đao vì khủng hoảng. Hôm qua cũng là ngày thứ hai liên tiếp Quốc hội Mỹ nghe tường trình về vấn đề của các nhà sản xuất xe hơi nhưng chưa có giải pháp nào được đưa ra.

Khủng hoảng đã đẩy Phố Wall trở về vạch xuất phát của 5 năm trước. Ảnh: gothamist.com.

Cùng ngày, báo cáo xấu về thị trường nhà đất cũng như sự sụt mạnh của chỉ số giá tiêu dùng tiếp tục tô đen bức tranh kinh tế Mỹ, và reo rắc nỗi sợ lên giới chứng khoán. Khối ngân hàng chịu ảnh hưởng gián tiếp vì nhà đầu tư lo ngại nhà băng sẽ lỗ nặng do khủng hoảng nên đẩy mạnh bán tháo. Cổ phiếu của Citigroup, Bank of America, và JPMorgan mất lần lượt 23%, 14%, và 12%.

Chỉ số giá CPI vừa được công bố giảm 1% trong tháng 10, cao hơn đự đoán 0,8% thu được từ các nhà kinh tế sau cuộc khảo sát của Briefing.com. Chỉ số CPI lõi, loại trừ giá lương thực và năng lượng, giảm 0,1%.

Bộ Thương mại cho hay, số nhà mới xây cũng như các giấy phép xây mới được cấp trong tháng 10 sụt giảm kỷ lục. Số nhà mới sau tháng 10 là 791 nghìn, thấp hơn 4,5% so với tháng 9. Cấp phép xây mới cũng chỉ là 708 nghìn, đi xuống 12% so với tháng trước, đồng thời phá kỷ lục 709 nghìn được lập cách đây hơn 33 năm.

Bản báo cáo của Cục Dự trữ Liên bang (FED) công bố sau cuộc họp hôm qua cho thấy, FED đã hạ đánh giá triển vọng kinh tế Mỹ trong 2 năm tới. Bên cạnh đó, cắt giảm lãi suất có thể lại được áp dụng để che chắn cho nước Mỹ trước khủng hoảng.

Giá dầu giảm thêm 77 cent xuống còn 53,62 đôla một thùng, thấp nhất trong 21 tháng qua.

Bên kia bờ đại tây dương, chứng khoán của các nền kinh tế lớn cũng bị cuốn theo cơn lũ bán tháo được khởi phát từ phố Wall. Chỉ số FTSE 100 của Anh xuống 4,48%, chỉ số DAX của Đức giảm 4,92%. Chỉ số CAC 40 của Pháp tụt dốc 4,03%.

Tại châu Á, trong xu hướng đi xuống chung của thế giới, chứng khoán Trung Quốc đã gây bất ngờ lớn khi lội ngược dòng đi lên. Chỉ số Shanghai Composite của nước này tăng 6,05% nhờ cổ phiếu dầu khí, nhóm được cho là sẽ hưởng lợi khi nước này dự định tăng thuế, từ đó có thể đẩy giá xăng lên. Chỉ số Nikkei 225 của Nhật xuống nhẹ 0,66%. Chỉ số KOSPI của Hàn Quốc và Hang Sheng của Hong Kong trượt dốc lần lượt 1,87% và 0,77%.

Tính tới 9h50 sáng nay, chứng khoán châu Á ngập trong sắc đỏ. Chỉ số Nikkei 225 giảm 4,32%. Hangsheng giảm 4,96%, chỉ số Shanghai Composite giảm 1,49%. Chỉ số KOSPI giảm 4,39%.

Không có lực hỗ trợ Vn-Index

|

Lao dốc cùng chứng khoán thế giới, Vn-Index phiên sáng nay lùi thêm 11,15 điểm (3,3%), chốt ở 325,74 và cách đáy cũ của ngày 28/10 chưa đầy 3 điểm.

Dow Jone xuống mức thấp nhất trong hơn 5 năm qua, chứng khoán Châu Âu, châu Á ngập chìm trong sắc đỏ đã tác động đến thị trường chứng khoán Việt Nam. Qua nửa giờ giao dịch đầu tiên, Vn-Index bị trừ đi 10,33 điểm, xuống 326,56. Khối lượng cổ phiếu và chứng chỉ quỹ "trao tay" tăng gấp đôi so với đợt 1 hôm qua, đạt 3,2 triệu chứng khoán, tương đương 80,3 tỷ đồng. Nhóm 10 mã có giá trị vốn hóa lớn nhất HOSE không có một mã xanh, trong đó quá nửa giảm hết biên độ cho phép.

Mất điểm phiên thứ tư liên tiếp, tổng số điểm trừ của Vn-Index lên 26,33 điểm. Ảnh: Đ.Q.

Dù nhiều cổ phiếu bán ra dưới giá tham chiếu, nhưng nhà đầu tư vẫn dè dặt mua vào do tâm lý lo ngại thị trường sẽ giảm thêm khiến cho lượng cung vẫn áp đảo cầu. Với diễn biến ấy, giao dịch trong đợt khớp lệnh liên tục tiếp tục nghiêng về bán ra, viễn cảnh đảo ngược thế trận của Vn-Index càng trở nên xa vời hơn. Dễ nhận ra trên bảng điện tử với khoảng 10 mã bật xanh như BAS, BHS, COM, DTT, IFS... Khối lượng giao dịch đã cải thiện hơn, với 12,6 triệu chứng khoán chuyển nhượng, đạt giá trị 313,5 tỷ đồng. Tuy nhiên, xu thế giảm của Vn-Index vẫn chưa có dấu hiệu kết thúc.

Chỉ số chứng khoán sàn TP HCM tiếp tục xuống dần cho đến hết phiên, đạt mức chung cuộc 325,74 điểm. Tính cả thỏa thuận và khớp lệnh, tổng khối lượng cổ phiếu và chứng chỉ quỹ hôm nay đạt 15,7 triệu chứng khoán, đây được xem là mức cao nhất trong 5 phiên trở lại đây, trị giá tỷ 454 đồng.

Kết phiên có 17 mã tăng, 11 cổ phiếu đứng giá tham chiếu và 142 mã bổ nhào đi xuống. SJS, TCT giảm mạnh đến 3,5 điểm; BMC, DMC, FPT cùng rớt thêm 2.500 - 3.000 đồng một cổ phiếu

Vẫn dẫn đầu về khối lượng giao dịch, STB phiên này đạt triệu 3,6 cổ phiếu, kế đến là HPG (807.140 cổ phiếu), SSI (696.690 cổ phiếu).

Lãi suất cơ bản vừa mới công bố sẽ tiếp tục giảm xuống còn 11%, tuy nhiên, theo nhận định của giới chuyên gia, động thái này chưa ảnh hưởng đến thị trường. Theo giám đốc công ty chứng khoán SME, chi nhánh TP HCM, ông Bùi Văn Quang, cắt giảm lãi suất là biện pháp đang được nhiều nước trên thế giới áp dụng, nhằm ngăn ngừa nguy cơ suy thoái. Giới phân tích, nhà đầu tư đã đoán biết khả năng lãi suất cơ bản trong nước sẽ hạ xuống theo xu hướng chung của thế giới, thị trường do vậy không bất ngờ với thông tin này. Dự đoán những phiên sắp tới, Vn-Index có thể lên nhẹ, nhưng theo ông Quang, đó chủ yếu do giá chứng khoán sau chuỗi giảm sẽ hồi phục trở lại khi nhà đầu tư nhận thấy mức giá hợp lý để mua vào.

Hòa cùng xu hướng đi xuống của chứng khoán sàn TP HCM, HaSTC-Index của sàn Hà Nội trượt 4,41 điểm (3,98%), chốt ở 106,49 điểm. Tổng khối lượng giao dịch toàn thị trường đạt 7,5 triệu chứng khoán, tương ứng 198,8 tỷ đồng.

Phiên giao dịch sáng nay, lượng giao dịch của khối ngoại đã tăng lên khá mạnh tuy nhiên đây vẫn chủ yếu là các giao dịch thoả thuận trong nội khối này.

Họ mua vào qua phương thức khớp lệnh 53 cổ phiếu và 2 chứng chỉ quỹ với tổng khối lượng là 884.130 đơn vị, giá trị đạt 29,323 tỷ đồng.

Họ bán cũng qua hình thức khớp lệnh cổ phiếu 33 và 2 chứng chỉ quỹ với tổng khối lượng đạt 923.460 đơn vị, giá trị là hơn 30,3 tỷ đồng.

Về phần thoả thuận, khối này thoả thuận mua 3 mã cổ phiếu với tổng khối lượng là 665.300 cổ phiếu, giá trị là 43,455 tỷ đồng. Trong đó VPL (430.000 cp), SAV (200.000 cp) và TCR (35.300 cp).

Họ thoả thuận bán ra 2 mã cổ phiếu với tổng khối lượng đạt 580.180 cổ phiếu, giá trị là hơn 44 tỷ đồng. 2 mã được thoả thuận bán ra là VPL (450.000 cp) và SAV (130.180 cp).

Như vậy trong toàn phiên hôm nay, khối ngoại mua vào 1.549.430 chứng khoán với giá trị là 72,78 tỷ đồng. Tăng 131,15% về khối lượng và tăng 195,35% về giá trị so với phiên giao dịch trước đó.

Tổng khối lượng chứng khoán họ bán trong phiên hôm nay là 1.503.640 chứng khoán, giá trị là 74,36 tỷ đồng. Giảm 1,46% về khối lượng nhưng tăng 14,32% về giá trị so với phiên giao dịch hôm qua.

10 cổ phiếu được NĐTNN giao dịch (khớp lệnh) nhiều nhất trong phiên:

Mã CK

KL mua

KL bán

Mã CK

KL bán

KL mua

HPG

146,870

70,000

DPM

144,100

60,530

VSH

96,410

10,800

FPT

128,530

1,400

DPM

60,530

144,100

VIP

73,000

0

VHC

57,500

0

HPG

70,000

146,870

REE

57,300

0

TTP

50,000

0

ANV

55,990

40,360

TRI

40,940

0

HRC

54,400

0

ANV

40,360

55,990

VTO

50,000

0

TAC

37,770

350

VNM

41,830

2,180

DHG

36,570

29,500

TRC

30,000

0

SAM

31,000

10,000

Giao dịch của NĐTNN trên HOSE trong 5 phiên gần nhất:

Ngày

KLGD (mua)

KLGD (bán)

Giá trị mua (1.000đ)

Giá trị bán (1.000đ)

11/14/08

496,280

2,053,250

15,170,016

63,082,714

11/17/08

787,690

1,059,010

41,890,266

45,581,155

11/18/08

768,930

2,078,000

32,266,474

84,567,785

11/19/08

670,300

1,525,880

24,641,442

65,045,059

11/20/08

1,549,430

1,503,640

72,778,576

74,362,350

Tổng

4,272,630

8,219,780

186,746,774

332,639,063

Trên sàn GDCK Hà Nội, khối ngoại vẫn tiếp tục giảm giao dịch tại đây.

Cụ thể, khối này mua vào 15 mã với tổng khối lượng đạt 123.200 cổ phiếu, tương đương giá trị đạt 2,1 tỷ đồng. Giảm 30,47% về khối lượng và giảm 58,69% về giá trị so với phiên giao dịch trước đó.

Các mã cổ phiếu được khối ngoại mua vào nhiều nhất bao gồm: VCG (74.300 cp), KLS (21.800 cp), PVI (7.000 cp), SDD (6.200 cổ phiếu)…

Trong khi đó họ bán ra 8 mã với tổng khối lượng đạt 233.500 cổ phiếu, giá trị đạt 3,7 tỷ đồng. Giảm 24% về khối lượng và giảm 23,88% về giá trị so với phiên giao dịch hôm qua.

Các mã cổ phiếu được họ bán ra nhiều nhất bao gồm: VCG (175.000 cp), BCC (38.500 cp), PVI (5.100 cp), BTS (5.000 cp)…

Về giao dịch trái phiếu, khối ngoại giảm mạnh giao dịch chứng khoán này khi họ mua vào 1 trái phiếu với khối lượng là 325.000 chứng khoán, giá trị là 36,652 tỷ đồng. Họ bán 3 mã trái phiếu với tổng khối lượng là 3.825.000 chứng khoán, giá trị đạt 375,5 tỷ đồng

Giao dịch cổ phiếu của NĐTNN trên HaSTC trong 5 phiên gần nhất:

Ngày

KLGD (mua)

KLGD (bán)

Giá trị mua

Giá trị bán

11/14/08

39,200

452,400

947,580,000

10,267,570,000

11/17/08

110,300

317,500

3,514,170,000

7,342,310,000

11/18/08

70,300

646,500

2,126,540,000

15,652,890,000

11/19/08

177,200

307,400

5,229,720,000

4,861,640,000

11/20/08

123,200

233,500

2,160,180,000

3,700,810,000

Tổng

520,200

1,957,300

13,978,190,000

41,825,220,000

Trước tin đồn cho rằng thuế thu nhập từ chứng khoán sẽ được dời đến đầu năm 2010 do thị trường hiện quá ảm đạm, đại diện Bộ Tài chính khẳng định việc thu thuế này vẫn sẽ được áp dụng từ ngày 1-1-2009.

Ông Vũ Văn Trường, Vụ trưởng Vụ Chính sách thuế của Bộ Tài chính, cho biết bộ đã tổng hợp ý kiến và đưa ra báo cáo Chính phủ trước kỳ họp Quốc hội vừa qua để nếu có điều chỉnh thì trình lên Quốc hội. Do Chính phủ không có ý kiến nên luật vẫn sẽ được áp dụng vào đầu năm sau. Quốc hội cũng đã thảo luận vấn đề này nhưng vẫn không có gì thay đổi.

Một quan chức của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cho biết ủy ban đã báo cáo tình hình thị trường cũng như làm văn bản trình lên Bộ Tài chính xin hoãn việc thu thuế từ đầu tư chứng khoán.

Theo Luật Thuế thu nhập cá nhân được chính thức áp dụng vào đầu năm sau trong đó có thuế thu nhập từ chứng khoán thì nhà đầu tư phải đăng ký từ đầu một trong hai phương thức nộp thuế, một là nộp 20% trên tổng lợi nhuận cả năm từ kinh doanh chứng khoán và phải có chứng từ để chứng minh, và hai là nộp 0,1% giá trị mỗi lần giao dịch bán chứng khoán.

Điều vẫn chưa thuyết phục nhiều nhà đầu tư là việc thu thuế thu nhập trên khoản cổ tức và cổ phiếu thưởng mà nhà đầu tư được nhận vì khi nhận các khoản trên thì giá cổ phiếu đã được điều chỉnh giảm tương ứng với mức được nhận.

Việc thu thuế, theo các chuyên gia sẽ có tác động không tốt đến thị trường chứng khoán trong tình hình thị trường đang đi xuống liên tục và chưa có dấu hiệu phục hồi trong ngắn hạn.

Ông Trương Duy Khiêm, Trưởng phòng môi giới Công ty chứng khoán ACB, cho rằng đánh thuế thu nhập từ chứng khoán vào thời điểm này sẽ càng không khuyến khích nhà đầu tư tham gia thị trường.

“Thị trường không biết khi nào sẽ hồi phục, sản xuất kinh doanh của các công ty sẽ tiếp tục bị ảnh hưởng bởi suy thoái toàn cầu, cộng thêm việc kê khai thuế rắc rối và phải chi một phần lợi nhuận để đóng thuế sẽ khiến nhà đầu tư cân nhắc kỹ hơn trước khi tham gia thị trường”, ông Khiêm phân tích và nói thêm rằng quá trình cổ phần hóa của một loạt các doanh nghiệp lớn từ nay đến năm 2010 ít nhiều cũng sẽ bị ảnh hưởng.(TBKTSG, 20/11)

Sang ngày giao dịch thứ 4 trong tuần này, chứng khoán tiếp tục giảm mạnh, đe doạ phá vỡ đáy tạo lập trong cuối tháng 10 vừa qua.


Sức cầu yếu ớt trong 3 phiên vừa qua, đồng thời phiên giao dịch sáng nay, trước giờ mở cửa giới đầu tư trong nước lại bị ảnh hưởng tâm lý khi chứng khoán Mỹ lại lao dốc mạnh trong phiên giao dịch kết thúc rạng sáng nay theo giờ Việt Nam.

Thị trường chứng khoán Châu Âu cũng lao dốc mạnh không kém trong khi đó khu vực Châu Á tiếp tục phủ sắc đỏ trong phiên giao dịch buổi sáng này.

Chứng khoán Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng giảm mạnh này khi kết thúc đợt 1, chỉ số VN-Index giảm mạnh 10,33 điểm (tương đương giảm 3,07%) xuống còn 326,56 điểm.

Tuy vậy có điều ghi nhận là khối lượng giao dịch trong đợt 1 tăng khá đáng kể dù chưa thể hiện được nhiều nhưng với hơn 3,2 triệu chứng khoán được giao dịch với giá trị là 80,365 tỷ đồng cũng đã gấp đôi đợt 1 phiên trước đó.

Những phút đầu đợt 2 đà giảm điểm có phần giảm đôi chút nhưng càng giao dịch, VN-Index vẫn tỏ ra đuối sức và kết thúc đợt khớp lệnh liên tục, chỉ số này giảm mạnh hơn trong đợt 1 khi mất thêm 11,66 điểm (tương đương giảm 3,46%) xuống còn 325,23 điểm.

Khối lượng giao dịch vẫn là điểm sáng khi kết thúc đợt 2 này đã có 12,66 triệu đơn vị được giao dịch với giá trị là 313,57 tỷ đồng.

Giao dịch tăng khá nhưng cũng chưa đủ giúp thị trường bớt căng thẳng, chung cuộc chỉ số VN-Index giảm mạnh 11,15 điểm (tương đương giảm 3,31%) đóng cửa ở mức 325,74 điểm.

Như vậy, cho đến thời điểm này, mức đáy 322,8 điểm (28/10) đã lại cận kề khi chỉ số VN-Index chỉ còn cách ngưỡng này chưa đầy 3 điểm nữa.

Tổng khối lượng giao dịch khớp lệnh của cổ phiếu và chứng chỉ quỹ phiên này tăng khá tốt so với phiên trước đó khi đã có hơn 14,35 triệu chứng khoán được giao dịch với giá trị là 351,71 tỷ đồng. Như vậy so với phiên trước đó, khối lượng đã tăng gần 60% trong khi giá trị cũng tăng xấp xỉ 50%.

Điểm sáng về khối lượng giao dịch phiên này mở ra hy vọng cho phiên giao dịch cuối tuần sẽ bớt ảm đạm và chứng khoán sẽ tránh được 1 tuần trọn vẹn mất điểm.

Phiên này đa phần cổ phiếu giảm giá với trên 80% mã đi xuống, cụ thể trong tổng số 166 mã cổ phiếu và 4 chứng chỉ quỹ niêm yết, chỉ có 17 mã tăng giá (trong đó có 3 mã tăng trần), 11 mã đứng giá và còn lại là 142 mã giảm giá (trong đó có 68 mã giảm giá sàn).

Các cổ phiếu tăng giá phiên này không hỗ trợ VN-Index được nhiều khi đều là các mã nhỏ lẻ như: BAS của CTCP BASA, BTC của Cơ khí Xây dựng Bình Triệu, BT6 của Bê tông Châu Thới, CLC của Cát Lợi, DTT của Kỹ nghệ Đô Thành, NHC của Gạch Nhị Hiệp...

Trong khi đó nhóm cổ phiếu vốn hoá lớn, ngoại trừ VIC của Vincom đứng giá còn lại đều giảm mạnh. STB của Sacombank đã bước sang ngày thứ 3 trong thời hạn mua cổ phiếu quỹ nhưng vẫn chưa tăng điểm được phiên nào hỗ trợ thị trường và phiên này STB cùng với PVD của PV Drilling, PVF của Tài Chính Dầu Khí, FPT của Tập đoàn FPT, HPG của Hoà Phát, PPC của Nhiệt điện Phả Lại là các mã giảm giá sàn.

Về khối lượng giao dịch, STB tăng khá mạnh và vượt trội hơn tất cả (3,61 triệu cp). Các mã sau đó không mã nào đạt trên 1 triệu đơn vị khi xếp thứ 2 là HPG (0,81 triệu cp), SSI (0,7 triệu cp), SAM (0,64 triệu cp), FPT (0,47 triệu cp)...

Chi tiết giao dịch ngày 20/11:
(Đơn vị giá: 1.000đ; Đơn vị KL: 1 CP)

Mã CK

Giá cao nhất

Giá thấp nhất

Giá đóng cửa

Thay đổi

%Thay đổi

Khối lượng

ABT

27.5

27

27.1

-0.4

-1.45

8,560

ACL

27.5

26.2

26.2

-1.3

-4.73

15,270

AGF

16.9

16.3

16.5

-0.5

-2.94

27,590

ALP

9.3

9.1

9.1

-0.4

-4.21

37,930

ALT

24

23.1

24

-0.2

-0.83

410

ANV

20.3

20.3

20.3

-1

-4.69

132,660

ASP

10.5

10.3

10.5

-0.1

-0.94

12,200

BAS

12.3

12.2

12.3

0.4

3.36

570

BBC

14.9

14.4

14.5

-0.6

-3.97

38,830

BBT

6

6

6

0

0.00

29,510

BHS

14.4

13.5

14

-0.2

-1.41

9,800

BMC

73

70

70.5

-3

-4.08

62,820

BMI

19

18.2

19

0.5

2.70

3,050

BMP

30.1

29.9

29.9

-1.5

-4.78

41,540

BPC

12.3

11.4

11.4

-0.4

-3.39

11,210

BT6

56

53

56

0.5

0.90

1,980

BTC

23

21.8

23

0.2

0.88

2,030

CAN

12.8

12.6

12.7

0

0.00

25,510

CII

25.3

25.3

25.3

-1.3

-4.89

17,120

CLC

20.8

19.8

20.4

0.4

2.00

40,550

CNT

11.8

11.6

11.8

0

0.00

24,310

COM

33.9

33

33.7

0.7

2.12

2,090

CYC

11.4

11.2

11.2

-0.5

-4.27

14,480

DCC

11.8

11.4

11.8

0

0.00

6,530

DCL

31

30.4

30.5

-1.5

-4.69

17,710

DCT

9.2

9

9.1

-0.3

-3.19

83,590

DDM

15.5

14.8

15

-0.5

-3.23

54,630

DHA

19.7

19.6

19.6

-0.9

-4.39

14,090

DHG

112

110

112

-2

-1.75

40,640

DIC

16.1

15.6

15.7

-0.4

-2.48

31,310

DMC

53

52.5

52.5

-2.5

-4.55

28,530

DNP

10

9.8

10

0.1

1.01

24,450

DPC

11

10.5

11

0

0.00

1,350

DPM

38.6

37.3

37.3

-1.7

-4.36

440,110

DPR

32.5

31.4

31.4

-1.6

-4.85

72,760

DQC

17.1

16.8

16.8

-0.8

-4.55

96,910

DRC

20.4

19.9

20

-0.4

-1.96

17,900

DTT

11

11

11

0.5

4.76

200

DXP

23.6

23.1

23.2

-1.1

-4.53

11,840

DXV

7.5

7.3

7.3

-0.3

-3.95

33,390

FBT

14.8

14.5

14.5

-0.7

-4.61

19,500

FMC

11.3

11.2

11.3

-0.4

-3.42

31,830

FPC

19.5

19.5

19.5

0

0.00

10

FPT

53.5

52.5

52.5

-2.5

-4.55

475,410

GIL

15

14.5

14.5

-0.6

-3.97

23,240

GMC

16.1

14.9

16.1

0.7

4.55

12,280

GMD

32.5

32.3

32.3

-1.7

-5.00

80,290

GTA

9.2

8.9

8.9

-0.4

-4.30

9,900

HAP

19.6

19.3

19.6

-0.7

-3.45

69,020

HAS

11.6

11.6

11.6

-0.4

-3.33

6,250

HAX

17.4

16.7

16.7

-0.8

-4.57

6,620

HBC

16.9

16.8

16.8

-0.8

-4.55

60,070

HBD

11

10.5

11

0

0.00

4,810

HDC

22.5

22.2

22.5

-0.5

-2.17

11,750

HLA

18

18

18

-0.9

-4.76

510

HMC

13.6

13.3

13.6

-0.2

-1.45

7,700

HPG

30.8

30.1

30.1

-1.5

-4.75

807,140

HRC

31.5

31

31.2

-0.8

-2.50

60,300

HSI

12.6

12.2

12.2

-0.4

-3.17

11,710

HT1

13.9

13.3

13.3

-0.7

-5.00

8,640

HTV

9.9

9.5

9.9

-0.1

-1.00

20,470

ICF

8.2

8

8.1

-0.3

-3.57

41,140

IFS

8.5

7.8

7.9

-0.2

-2.47

1,960

IMP

69

67

67.5

-1.5

-2.17

4,630

ITA

29

28.5

28.5

-1.4

-4.68

263,780

KDC

31.8

30.3

31

-0.8

-2.52

72,250

KHA

12.3

12.3

12.3

-1.6

-11.51

66,670

KHP

11.1

10.7

10.7

-0.5

-4.46

39,420

KMR

7

6.8

6.8

-0.3

-4.23

50,160

KSH

14.9

14.9

14.9

-0.7

-4.49

10

L10

12.6

12

12

-0.5

-4.00

2,160

LAF

12

11.7

11.7

-0.6

-4.88

57,250

LBM

17.8

17.5

17.5

-0.9

-4.89

65,750

LCG

43.4

43.4

43.4

-2.2

-4.82

10

LGC

16

15.7

15.8

-0.7

-4.24

5,610

LSS

16

15.6

16

0.4

2.56

80,120

MAFPF1

4.1

4

4

-0.2

-4.76

30,570

MCP

15

14.5

15

-0.1

-0.66

15,050

MCV

10.7

10.5

10.6

-0.4

-3.64

44,000

MHC

9.8

9.5

9.8

-0.1

-1.01

27,060

MPC

11.5

11.3

11.5

-0.3

-2.54

96,190

NAV

13.9

13.5

13.5

-0.3

-2.17

31,150

NHC

43

42.5

43

0.1

0.23

5,890

NKD

31.5

30.4

31.4

-0.5

-1.57

10,210

NSC

25.8

25.5

25.5

-1.3

-4.85

8,840

NTL

37.8

36.2

36.2

-1.9

-4.99

67,000

OPC

29.9

29.9

29.9

-1.5

-4.78

5,550

PAC

40.5

39

39

-1.5

-3.70

8,000

PET

16.6

16

16.1

-0.6

-3.59

74,100

PGC

11

10.7

11

-0.2

-1.79

45,540

PIT

13.6

13.3

13.4

-0.6

-4.29

19,000

PJT

12.5

12.3

12.5

-0.3

-2.34

22,670

PMS

17.4

17

17

-0.4

-2.30

110

PNC

10.3

10

10

-0.4

-3.85

4,770

PPC

22.3

21.9

21.9

-1.1

-4.78

342,600

PRUBF1

4.1

4

4

-0.1

-2.44

85,820

PVD

69

67

67.5

-1

-1.46

69,770

PVF

18.6

18.4

18.4

-0.9

-4.66

401,190

PVT

17

16.6

16.6

-0.8

-4.60

254,020

RAL

28.4

28

28

-1.4

-4.76

9,260

REE

22.6

22

22.6

-0.5

-2.16

384,160

RHC

21.2

20.3

21.2

-0.1

-0.47

3,260

RIC

18.9

18

18.5

-0.4

-2.12

12,280

SAF

19.5

19

19

-0.5

-2.56

2,750

SAM

16.6

15.9

15.9

-0.8

-4.79

638,490

SAV

13.3

13

13.3

0.3

2.31

14,710

SBT

9.5

9.2

9.2

-0.4

-4.17

85,180

SC5

26.8

26.5

26.5

-1.3

-4.68

60,790

SCD

16

14.7

16

0.6

3.90

4,500

SDN

17.9

16.5

16.5

-0.6

-3.51

30

SFC

33.3

33.3

33.3

-1.7

-4.86

4,060

SFI

41.8

41.4

41.4

-2.1

-4.83

47,210

SFN

10.7

10.1

10.1

-0.5

-4.72

1,220

SGC

12.5

12.3

12.3

-0.6

-4.65

2,600

SGH

81

78

81

-0.5

-0.61

480

SGT

23.7

22.8

22.8

-1.1

-4.60

25,260

SHC

22.5

21.9

21.9

-1.1

-4.78

4,600

SJ1

14.5

14.5

14.5

-0.5

-3.33

10

SJD

14.1

13.7

14

-0.1

-0.71

23,680

SJS

68.5

66.5

66.5

-3.5

-5.00

165,410

SMC

21

20.9

20.9

-1

-4.57

35,800

SSC

21

20

20.5

-0.1

-0.49

6,700

SSI

30.8

30

30

-1.5

-4.76

696,690

ST8

24

23.8

23.8

-1.2

-4.80

15,040

STB

21.9

21.5

21.5

-1.1

-4.87

3,613,420

SZL

59.5

55

59.5

2.5

4.39

24,710

TAC

25.5

25

25

-1.3

-4.94

286,040

TCM

10.3

10.3

10.3

-0.5

-4.63

8,520

TCR

9.5

9.5

9.5

-0.5

-5.00

3,890

TCT

80

77.5

77.5

-3.5

-4.32

7,340

TDH

32.1

31.9

31.9

-1.6

-4.78

165,180

TMC

23.9

23

23

-0.6

-2.54

4,710

TMS

35.9

32.5

35.5

1.3

3.80

4,430

TNA

17.7

17

17

-0.7

-3.95

8,040

TNC

10.3

9.8

9.8

-0.5

-4.85

31,300

TPC

8.2

8

8

-0.4

-4.76

72,430

TRC

32.2

30.6

30.7

-1.5

-4.66

115,900

TRI

9.3

9.1

9.1

-0.4

-4.21

67,510

TS4

9.5

9.5

9.5

-0.4

-4.04

5,990

TSC

42.2

41.8

41.8

-2.1

-4.78

29,580

TTC

9.8

9.4

9.8

0

0.00

11,200

TTF

16.4

15.8

16.4

-0.2

-1.20

6,430

TTP

19.2

18.8

19.2

-0.3

-1.54

126,310

TYA

13

12.7

12.8

-0.5

-3.76

34,600

UIC

12

11.3

11.7

0

0.00

26,730

UNI

15.1

15

15

-0.6

-3.85

2,650

VFC

9.2

8.7

8.8

-0.3

-3.30

11,470

VFMVF1

8.7

8.4

8.4

-0.4

-4.55

149,690

VFMVF4

4.8

4.6

4.6

-0.2

-4.17

138,400

VGP

21

21

21

0

0.00

110

VHC

19

18.6

19

0.5

2.70

58,630

VHG

8.5

8.3

8.3

-0.4

-4.60

10,990

VIC

79

77

79

0

0.00

41,700

VID

9.8

9.5

9.6

-0.2

-2.04

56,430

VIP

12.2

11.8

11.8

-0.4

-3.28

231,650

VIS

24

23.7

24

-0.2

-0.83

35,750

VKP

8.1

8

8

-0.4

-4.76

17,110

VNA

22.5

21.2

21.2

-1.1

-4.93

134,690

VNE

7.3

7.2

7.2

-0.3

-4.00

50,000

VNM

83

81

82.5

-2.5

-2.94

82,770

VNS

19.3

18.7

19

-0.5

-2.56

52,570

VPK

8.8

8.3

8.3

-0.2

-2.35

1,680

VPL

94.5

94

94

-1

-1.05

37,820

VSC

57.5

56

57.5

-1

-1.71

78,770

VSG

13.5

12.9

13.5

0.1

0.75

9,400

VSH

27.2

26.7

26.8

-0.7

-2.55

208,920

VTA

7.6

7.6

7.6

-0.3

-3.80

5,140

VTB

14.9

14.9

14.9

-0.7

-4.49

1,130

VTC

10.5

10.3

10.3

-0.5

-4.63

1,550

VTO

12.9

12.7

12.7

-0.6

-4.51

352,680

ATPVietnam