Chứng khoán Mỹ tăng điểm nhờ gói cứu trợ 800 tỷ USD

Wednesday, November 26, 2008 |

Hôm qua 25/11, chỉ số Nasdaq mất điểm. Tuy nhiên hai chỉ số chính còn lại của phố Wall đều đi lên khi nhà đầu tư đón chào nỗ lực của Chính phủ nhằm tiếp tục nới lỏng thị trường cho vay và kích thích tiêu dùng.

Kế hoạch giải cứu mới của Chính phủ Mỹ là không đủ để làm các nhà đầu tư quên đi những bất ổn đang đe dọa nền kinh tế. Ảnh: daylife.com

Chỉ số công nghiệp Dow Jones nhích thêm 0,43%, đóng cửa ở mức 8.479,47 điểm. Chỉ số Standar & Poor đi lên 0,66%, kết thúc ngày giao dịch tại 857,39 điểm. Đà sa sút 0,5% xuống còn 1.464,73 của chỉ số Nasdaq đã khiến ngày tăng điểm của phố Wall không trọn vẹn.

Chứng khoán Mỹ khởi sắc sau khi Chính phủ công bố giải pháp kích thích kinh tế, trong đó, 800 tỷ đôla sẽ được dùng để hỗ trợ cho người tiêu dùng và các nhà cho vay cầm cố. Tuy nhiên, tin tốt trên đã phần nào bị lu mờ trước các bản báo cáo kinh tế bất lợi mới được đưa ra và việc nhà đầu tư tăng cường cụ thể hóa lợi nhuận tại một số cổ phiếu công nghệ.

Theo Bộ Thương mại, kinh tế Mỹ vừa trải qua mức sụt giảm quý tồi tệ nhất trong 7 năm trở lại đây. GDP giảm 0,5% trong quý III, trong khi trước đó chỉ số này đi lên 0,3% trong quý II. Tuy nhiên, mức sụt giảm của GDP là nằm trong dự đoán. Theo nhận định của các chuyên gia, kinh tế Mỹ tiếp tục suy yếu trong quý IV/2008 và quý I đầu năm 2009. Một báo cáo khác cho thấy, thị trường bất động sản tiếp tục suy yếu. Chỉ số giá nhà lao dốc nhanh kỷ lục, tới 16,6% trong quý III.

Điểm sáng trong những báo cáo kinh tế mới nằm ở chỉ số lòng tin người tiêu dùng từ mức thấp nhất từ xưa tới nay trong tháng 10 đã hồi phục nhẹ tính tới thời điểm này của tháng 11.

Phiên giao dịch hôm qua chứng kiến nhiều cổ phiếu tài chính như Citigroup, JPMorgan Chase, Morgan Stanley và Goldman Sachs tiếp tục khởi sắc. Tuy nhiên, nhóm tập đoàn đầu tầu của khối công nghệ như Microsoft, Cisco System, Apply hay Oracle lại cùng trượt dốc.

Đánh giá kế hoạch mới của Chính phủ, ông Brian Battle, Phó chủ tịch tại Performance Trust Capital Partners, lại có quan điểm rằng, động thái mới của Chính phủ là dấu hiệu cho thấy tình hình thực tế đang rất đáng lo ngại. Các thông tin GDP và nhà đất càng tăng thêm cơ sở cho mối lo trên.

Nỗi sợ mơ hồ trong giới đầu tư lúc này là bất kể những nỗ lực và lượng tiền khổng lồ được đổ vào thị trường, hoạt động cho vay và thị trường bất động sản sẽ không có nhiều tiến triển, ông Robert Loest, Nhà Quản lý Quỹ tại Integrity Funds, nhận định. Ông cũng cho rằng, những phiên tăng điểm gần đây chỉ là một đợt hồi phục ngắn hạn sau chuỗi ngày mất điểm mạnh.

Ngày thứ tư, sẽ có một “bữa tiệc” thông tin kinh tế khi các báo cáo về thất nghiệp, thu nhập, chi tiêu, tình hình sản xuất, thị trường nhà đất và tâm lý người tiêu dùng được công bố.

Không khí lạc quan của phố Wall đã tác động tích cực lên kết quả giao dịch của thị trường châu Á. Sau phiên hôm qua, chỉ số Nikkei 225 của Nhật lên thêm 5,22%. Chỉ số Shanghai Composite của Trung Quốc giảm nhẹ 0,44%. Chỉ số KOSPI của Hàn Quốc được cộng 1,36%. Chỉ số Hang Seng của chứng khoán Hong Kong đóng cửa cao hơn tham chiếu 3%.

Tại châu Âu, cổ phiếu thuộc khối tài chính và năng lượng là động lực giúp các chỉ số chính có thêm phiên xanh. Chỉ số FTSE 100 của Anh tăng 0,44%. Chỉ số DAX của Đức và CAC 40 của pháp đi lên lần lượt 0,13% và 1,18%.

Tính tới 9h40 sáng nay 26/11, tại thị trường châu Á, chỉ số Nikkei 225 của Nhật lùi bước 1,3%. Chỉ số Hang Seng tăng 2,74%, Shanghai Composite sụt nhẹ 0,09%, và KOSPI của Hàn Quốc tăng 3,65%.

Chứng khoán hai sàn rơi tự do

|

Bất chấp phiên đi lên của chứng khoán Mỹ, Vn-Index hôm nay quay về xu hướng giảm sau khi tuột mất 8,59 điểm (2,68%), còn 311,74 điểm. Lượng cầu dè dặt khiến khối lượng lẫn giá trị giao dịch ở mức thấp.
> Nhà đầu tư thận trọng với tin tốt từ chứng khoán Mỹ

Động thái phục hồi của chỉ số chứng khoán sàn TP HCM hôm qua đã không dài hơi đến phiên sáng nay. Hết đợt khớp lệnh đầu tiên, Vn-Index vơi 2,14 điểm, giao dịch chỉ đạt 1,36 triệu chứng khoán, tương đương 33,8 tỷ đồng.

Nhà đầu tư dường như không còn hồ hởi đón nhận những phản ứng tích cực từ những khởi sắc của thị trường Mỹ, lực mua tỏ ra yếu sức và đa phần nhắm đến mức sàn. Bảng điện tử ngập chìm trong sắc đỏ, khả năng vực dậy điểm số của Vn-Index càng trở nên khó khăn hơn khi chỉ số này ngày một lùi xa mốc tham chiếu. Đến hết đợt khớp lệnh liên tục, số điểm trừ Vn-Index đã lên đến 7,25. Nhóm 10 mã có giá trị vốn hóa lớn trên HOSE không có lấy mã nào tăng. Khối lượng cổ phiếu và chứng chỉ quỹ trao tay nhỏ giọt, với 7,5 triệu, trị giá 194 tỷ đồng.

Bên mua đa phần là những lệnh quy mô nhỏ, chủ yếu thăm dò thị trường khiến khối lượng giao dịch phiên hôm nay ở mức thấp. Ảnh: Đ.Q.

Đà giảm kéo dài cho đến hết phiên giao dịch, ấn định mức chung cuộc 311,74 điểm. Lượng cầu hạn chế và tập trung ở vùng giá thấp khiến mặt bằng giá chưa thể đi lên. Thanh khoản thị trường bị kéo xuống mức thấp nhất, với 11,9 triệu chứng khoán, gồm cả giao dịch khớp lệnh và thỏa thuận, tương đương 353,7 tỷ đồng.

Một chuyên gia chứng khoán nhận xét nhà đầu tư đang e ngại báo cáo kết quả kinh doanh quý IV của doanh nghiệp niêm yết, những gì chưa rõ ràng, minh bạch trong các quý trước sẽ bộc lộ ra. Áp lực khủng hoảng kinh tế vẫn bao trùm khiến nhà đầu tư nghĩ rằng sự hồi phục của chứng khoán Mỹ chỉ là sự vực dậy sau chuỗi ngày đi xuống chứ chưa phải khởi đầu cho một xu hướng đi lên bền vững. Thêm vào đó là trạng thái bán ròng của khối ngoại càng tạo thêm sự dè chừng trong quyết định mua vào của nhà đầu tư.

Chung cuộc có 27 cổ phiếu tăng, 14 mã đứng giá và 130 cổ phiếu trượt dốc. Nhóm blue-chip gần như đồng loạt mất điểm, trong đó VNM, FPT mất đến 2,5 điểm, DPM, VPL cùng vơi 1.000 đồng một cổ phiếu.

STB dẫn đầu thị trường về khối lượng giao dịch, với 2 triệu cổ phiếu. Kế đến là FPT (629.240 cổ phiếu), HPG (394.130 cổ phiếu), SJS (369.700 cổ phiếu).

Bỏ qua 2 phiên hồi phục liên tiếp, HaSTC-Index của sàn Hà Nội hôm nay mất đi 5,68 điểm (5,4%), chính thức rớt mốc 100, chỉ còn 99,56 điểm. Tổng khối lượng giao dịch toàn thị trường đạt 7,6 triệu chứng khoán, tương đương 196,9 tỷ đồng.

-Phiên tăng điểm trước đó không tạo được bước đột phá nào trong phiên giao dịch sáng nay, trái lại thị trường lại chìm sâu khi giao dịch ảm đạm và biên độ giảm của VN-Index lại được nới rộng.

Chứng khoán Mỹ rạng sáng nay theo giờ Việt Nam không còn tăng mạnh mẽ nhưng vẫn lên điểm, đồng thời số liệu mới công bố cho thấy chỉ số tiêu dùng cả nước trong tháng 11 vừa qua giảm khá nhiều nhưng thị trường “bất động” trước các thông tin trên. Cảnh mua bán cầm chừng, tẻ nhạt.

VN-Index thấp nhất trong gần 3 năm qua kể từ ngày 25/1/2006

Ngay khi kết thúc giao dịch đợt 1 hôm nay, xu hướng giảm lại định hình khi VN-Index mất đi 2,14 điểm (tương đương giảm 0,66%) xuống còn 318,19 điểm. Những nỗ lực có điểm phiên trước đó đã lại bị lấy đi ngay khi kết thúc đợt đầu tiên này.

Tính thanh khoản của thị trường vẫn là điều đáng quan tâm khi mà giao dịch vẫn rất ít được thực hiện trong đợt 1 này, khối lượng giao dịch vẫn giảm xuống với chỉ hơn 1,55 triệu đơn vị giá trị tương đương 33,847 tỷ đồng.

Sang đợt khớp lệnh liên tục, diễn biến tiếp tục xấu đi khi VN-Index vẫn tiếp tục đi xuống, bên cạnh giao dịch không được cải thiện nhiều. Kết thúc đợt 2, VN-Index tiếp tục giảm khá mạnh 7,25 điểm (tương đương giảm 2,26%) xuống còn 313,08 điểm. Khối lượng giao dịch sau đợt 2 này đạt hơn 7,5 triệu đơn vị với giá trị là 194,125 tỷ đồng.

Chiều hướng đi xuống tiếp tục trong 15 phút khớp lệnh xác định giá đóng cửa còn lại, chung cuộc VN-Index giảm mạnh 8,59 điểm (tương đương giảm 2,68%) xuống còn 311,74 điểm.

Như vậy đây là mức điểm thấp nhất của chỉ số chứng khoán VN-index trong gần 3 năm qua (kể từ ngày 25/1/2006, mức điểm VN-Index tại thời điểm này là 310,86 điểm). Và tính từ đầu năm đến nay, chỉ số này đã giảm 615,28 điểm, tức là 66,37%.

Giao dịch tiếp tục giảm xuống khi tổng khối lượng giao dịch khớp lệnh của cổ phiếu và chứng chỉ quỹ phiên này chỉ đạt hơn 9,8 triệu đơn vị với giá trị là 251,26 tỷ đồng. Giảm 8% về khối lượng và 17% về giá trị so với phiên trước đó.

Phiên này, sàn GDCK Tp Hồ Chí Minh tiếp tục có thêm cổ phiếu mới niêm yết là TRA của CTCP Traphaco niêm yết lần đầu 8 triệu cổ phiếu với giá tham chiếu là 79.000 đồng/cổ phiếu.

Như vậy hiện tại sàn HOSE đã có 171 mã chứng khoán niêm yết (trong đó có 167 mã cổ phiếu và 4 chứng chỉ quỹ). 75% số chứng khoán niêm yết này đã giảm giá phiên này, cụ thể đã có 129 mã giảm giá (trong đó 52 mã giảm sàn), 27 mã tăng giá (chỉ có 4 mã tăng giá trần), 14 mã đứng giá và còn lại mã không có giao dịch tiếp tục là SGH của Khách sạn Sài Gòn.

Các cổ phiếu phiên này đều không trụ nổi trước sức mua yếu ớt, trong đó nhóm 10 cổ phiếu vốn hoá lớn đầu phiên còn số ít tăng giá hoặc ngập ngừng tham chiếu thì kết thúc giao dịch đều giảm khá mạnh trong đó PVF của Tài Chính Dầu Khí, PPC của Nhiệt điện Phả Lại là FPT của Tập đoàn FPT giảm giá sàn.

Cổ phiếu mới niêm yết là TRA với biên độ dao động giá trong hôm này là +/-20% đã không nằm ngoài dự đoán của nhiều người khi giảm trọn 20%, tức giảm 15.500 đồng được khớp ở 63.500 đồng/cổ phiếu và chỉ có 630 cổ phiếu được khớp lệnh thành công.

4 mã tăng giá trần phiên này là SFC của Nhiên liệu Sài Gòn, HSI của Vật tư Tổng hợp và Phân bón Hoá Sinh, DNP của Nhựa Đà Nẵng và SJ1 của Thuỷ sản Số 1. Ngoài ra các mã tăng nhẹ khác là ITA của ITACO, OPC của Dược OPC, GMD của Gemadept, NKD của Kinh Đô miền Bắc, HT1 của Xi măng Hà Tiên 1 còn lại các cổ phiếu nhỏ lẻ.

Khối lượng giao dịch của cổ phiếu STB của Sacombank vẫn chiếm tỷ trọng lớn của thị trường (2,05 triệu cp), sau đó là FPT (0,63 triệu cp), HPG (0,39 triệu cp), SSI (0,37 triệu cp), PVF (0,31 triệu cp), SJS (0,3 triệu cp)...

Chi tiết giao dịch ngày 26/11:
(Đơn vị giá: 1.000đ; Đơn vị KL: 1 CP)

Mã CK

Giá cao nhất

Giá thấp nhất

Giá đóng cửa

Thay đổi

%Thay đổi

Khối lượng

ABT

27.6

26

26.1

-1.2

-4.40

10,860

ACL

22.8

21.5

21.5

-1.1

-4.87

129,420

AGF

16.5

16.3

16.3

0

0.00

28,640

ALP

9

8.7

8.7

-0.3

-3.33

12,760

ALT

24.6

23

24.5

1

4.26

2,460

ANV

17.7

16.9

16.9

-0.6

-3.43

70,180

ASP

11.5

11.1

11.1

-0.3

-2.63

24,200

BAS

12.8

12.8

12.8

0

0.00

10

BBC

14.8

14.5

14.5

-0.1

-0.68

9,740

BBT

5.3

5.3

5.3

-0.2

-3.64

13,290

BHS

15

14.2

14.9

0

0.00

18,130

BMC

73

70

70

-4.5

-6.04

34,850

BMI

18.9

17.3

18

0

0.00

13,980

BMP

30.3

27.8

28.9

-1

-3.34

3,700

BPC

12.9

12.4

12.5

-0.4

-3.10

15,740

BT6

46.1

46.1

46.1

-2.4

-4.95

2,030

BTC

22.8

22

22.7

0.7

3.18

7,350

CAN

11.2

10.8

10.9

-1.6

-12.80

13,100

CII

24.9

24.7

24.7

0

0.00

7,150

CLC

17

16.8

16.8

-2.8

-14.29

15,770

CNT

11.8

11.5

11.7

0.2

1.74

8,600

COM

33.8

33.3

33.8

0.4

1.20

18,100

CYC

10.1

9.6

9.6

-0.5

-4.95

17,640

DCC

10.3

10.3

10.3

-0.5

-4.63

33,580

DCL

27.2

25.9

26.6

0.1

0.38

14,800

DCT

9

8.8

8.8

-0.2

-2.22

29,950

DDM

14.8

14

14

-0.7

-4.76

9,020

DHA

19.7

19.5

19.5

-0.1

-0.51

22,610

DHG

119

116

117

-3

-2.50

41,900

DIC

15.6

15.4

15.4

0.1

0.65

17,900

DMC

52

50

51.5

-0.5

-0.96

5,520

DNP

11.1

11.1

11.1

0.5

4.72

9,280

DPC

11

10

10.1

-0.4

-3.81

1,380

DPM

37.6

36.4

36.4

-1

-2.67

243,560

DPR

30.4

29.7

29.7

-0.7

-2.30

44,380

DQC

17.2

16.5

16.5

-0.7

-4.07

57,440

DRC

19

18.1

18.1

-0.9

-4.74

16,510

DTT

10.3

10.1

10.3

0.2

1.98

800

DXP

22.7

21.1

21.1

-0.8

-3.65

10,930

DXV

6.8

6.5

6.5

-0.3

-4.41

27,280

FBT

15.5

14.6

15.5

0.4

2.65

8,770

FMC

11.7

11.5

11.7

0.2

1.74

36,020

FPC

19.5

19.5

19.5

0

0.00

880

FPT

54

51

51

-2.5

-4.67

629,240

GIL

15.3

14.7

14.7

-0.5

-3.29

13,650

GMC

15.5

14.5

14.5

-0.5

-3.33

820

GMD

30

29.6

30

0.3

1.01

5,720

GTA

8.9

8.5

8.6

0.1

1.18

13,830

HAP

19.8

18.9

18.9

-0.9

-4.55

29,240

HAS

11.7

11.5

11.5

-0.2

-1.71

4,150

HAX

15

14.9

15

-0.5

-3.23

4,070

HBC

15.3

14.7

14.7

-0.7

-4.55

49,590

HBD

11.4

11

11.4

0.4

3.64

13,380

HDC

23.3

22.6

22.6

-0.7

-3.00

23,940

HLA

15

14.9

15

-0.6

-3.85

111,350

HMC

12.6

12.6

12.6

0

0.00

5,960

HPG

31.2

30.3

30.3

-0.7

-2.26

394,130

HRC

31.8

31.4

31.4

-0.1

-0.32

46,410

HSI

13.1

13.1

13.1

0.6

4.80

36,070

HT1

13.5

13

13.3

0.3

2.31

3,260

HTV

9.6

9.5

9.6

0

0.00

21,300

ICF

8

7.8

7.9

-0.1

-1.25

4,380

IFS

8.2

8

8.1

-0.1

-1.22

2,920

IMP

68.5

68

68

-0.5

-0.73

6,380

ITA

31

29.8

30.4

0.1

0.33

179,130

KDC

31.5

30.5

30.8

-0.1

-0.32

68,190

KHA

11.7

11.2

11.2

-0.4

-3.45

41,310

KHP

10.5

10.2

10.3

-0.2

-1.90

15,790

KMR

6.7

6.3

6.3

-0.3

-4.55

55,150

KSH

13

12.3

12.3

-0.6

-4.65

152,050

L10

12.5

11.8

11.8

-0.6

-4.84

4,500

LAF

11.7

11.4

11.5

-0.3

-2.54

9,280

LBM

16

15.7

15.7

-0.8

-4.85

28,770

LCG

35.6

35.6

35.6

-1.8

-4.81

8,110

LGC

16.1

15.3

15.3

-0.8

-4.97

1,350

LSS

15.7

15.2

15.2

-0.5

-3.18

20,100

MAFPF1

3.9

3.8

3.9

0

0.00

61,630

MCP

14.6

14

14

-0.6

-4.11

16,990

MCV

9.8

9.7

9.7

-0.2

-2.02

21,510

MHC

9.4

9.3

9.3

-0.4

-4.12

6,980

MPC

12.1

11.7

11.7

-0.4

-3.31

33,970

NAV

13.4

13.2

13.2

-0.6

-4.35

12,600

NHC

41

40.1

41

0.3

0.74

10,600

NKD

32.8

30.1

32.8

1.2

3.80

1,910

NSC

24.3

23.9

23.9

-1

-4.02

7,010

NTL

36.5

35.6

35.6

-1

-2.73

15,380

OPC

27

24.6

25.9

0.1

0.39

142,180

PAC

40

39.3

39.7

-0.3

-0.75

11,940

PET

14.9

14.3

14.3

-0.7

-4.67

133,080

PGC

10.8

10.5

10.5

-0.1

-0.94

22,670

PIT

13.8

13.4

13.4

-0.3

-2.19

8,900

PJT

12.6

12.1

12.3

-0.4

-3.15

6,400

PMS

18.5

17.7

18.5

0

0.00

940

PNC

10.5

9.8

9.8

-0.5

-4.85

5,600

PPC

18.1

18.1

18.1

-0.9

-4.74

49,250

PRUBF1

4.1

4

4

0

0.00

65,490

PVD

68

66.5

67

0

0.00

102,540

PVF

16.2

15.9

15.9

-0.8

-4.79

305,420

PVT

17

16.2

16.2

-0.8

-4.71

106,670

RAL

27

25.7

25.7

-1.3

-4.81

21,500

REE

23.4

22.4

22.4

-1.1

-4.68

261,730

RHC

22.9

22

22.9

0.1

0.44

11,600

RIC

18.2

17.8

18.1

0.4

2.26

14,700

SAF

19.6

18.8

19.6

0.6

3.16

5,180

SAM

15.8

15.3

15.3

-0.6

-3.77

184,400

SAV

13.1

12.9

12.9

-0.6

-4.44

175,200

SBT

9.2

9

9

-0.2

-2.17

33,670

SC5

24.4

23.5

23.5

-0.9

-3.69

14,920

SCD

16.2

15.4

15.4

-0.8

-4.94

10,840

SDN

16.7

16.7

16.7

0.5

3.09

10

SFC

39.7

38.9

39.7

1.8

4.75

13,640

SFI

38

36.7

36.7

-1.9

-4.92

17,070

SFN

10.2

10.2

10.2

0

0.00

90

SGC

11.9

11.1

11.1

-0.5

-4.31

14,940

SGH






0

SGT

24.5

23.6

23.7

-0.1

-0.42

17,870

SHC

22.3

20.9

21

-0.7

-3.23

8,660

SJ1

15.1

14.5

15.1

-0.1

-0.66

30

SJD

14.3

14.2

14.3

0.1

0.70

26,020

SJS

59.5

56.5

56.5

-2.5

-4.24

301,990

SMC

21

20

20

-1

-4.76

18,310

SSC

19

19

19

-0.6

-3.06

7,230

SSI

29.8

28.5

28.5

-1.5

-5.00

369,700

ST8

23.8

21.9

21.9

-1.1

-4.78

580

STB

20.6

19.9

19.9

-0.9

-4.33

2,056,650

SZL

60.5

60

60.5

-0.5

-0.82

18,360

TAC

23.7

22.6

22.6

-1.1

-4.64

50,710

TCM

10

9.5

9.5

-0.3

-3.06

60,840

TCR

9.1

8.8

8.9

-0.2

-2.20

2,700

TCT

81

79

79

-3

-3.66

1,590

TDH

27.5

27.5

27.5

-1.4

-4.84

89,300

TMC

23

22

22

-1

-4.35

1,320

TMS

37

35

37

0.3

0.82

4,990

TNA

17.7

17.2

17.2

-0.5

-2.82

5,000

TNC

9.6

9.5

9.5

-0.1

-1.04

9,400

TPC

8

7.6

7.7

-0.2

-2.53

34,690

TRA

63.5

63.5

63.5

-15.5

-19.62

630

TRC

30.5

28.7

28.7

-1.4

-4.65

114,470

TRI

8.3

8.1

8.1

-0.3

-3.57

16,660

TS4

9.6

9.2

9.2

-0.4

-4.17

4,760

TSC

34.3

34.3

34.3

-1.8

-4.99

6,670

TTC

9.2

8.7

9.2

-0.4

-4.17

15,900

TTF

16.8

15.5

15.5

-0.8

-4.91

38,610

TTP

19

18.6

18.6

-0.7

-3.63

42,740

TYA

12.7

11.9

11.9

-0.6

-4.80

51,910

UIC

11

10.5

10.5

-1.5

-12.50

19,920

UNI

14.9

14.2

14.2

-0.7

-4.70

5,690

VFC

8.5

8.1

8.1

-0.4

-4.71

6,140

VFMVF1

8.1

7.9

8

-0.1

-1.23

62,010

VFMVF4

4.8

4.6

4.6

-0.1

-2.13

52,080

VGP

22.3

21.2

21.2

-1.1

-4.93

1,120

VHC

19.2

18

18.8

-0.1

-0.53

98,600

VHG

8.3

8.3

8.3

-0.4

-4.60

10,540

VIC

82

80

81.5

-0.5

-0.61

57,190

VID

9.7

9.5

9.6

-0.1

-1.03

23,350

VIP

11.4

11

11

-0.4

-3.51

260,730

VIS

24.5

23.4

23.4

-1.1

-4.49

9,620

VKP

7.8

7.6

7.6

0

0.00

27,450

VNA

20.8

20.3

20.4

-0.1

-0.49

93,410

VNE

6.5

6.3

6.3

-0.3

-4.55

77,540

VNM

75.5

73

74

-2.5

-3.27

141,920

VNS

20

19.5

19.5

-1

-4.88

68,620

VPK

8.6

8.4

8.4

-0.2

-2.33

3,960

VPL

102

100

100

-1

-0.99

44,810

VSC

58.5

56

56

-2.5

-4.27

9,590

VSG

12

12

12

-0.1

-0.83

7,150

VSH

26.7

25.4

25.4

-1.1

-4.15

157,880

VTA

7.3

7

7.1

-0.1

-1.39

3,030

VTB

14.9

14.2

14.2

-0.7

-4.70

110

VTC

9.1

8.7

8.7

-0.4

-4.40

4,310

VTO

12.8

12.5

12.5

-0.4

-3.10

140,120

ATPVietnam