Hai sàn lại diễn biến trái chiều

Friday, October 17, 2008 |

Chứng khoán Việt Nam phiên giao dịch cuối tuần đã phản ứng trái chiều với thông tin giảm giá xăng dầu thêm 500 đồng/lít trên 2 sàn, trong khi Vn-Index tiếp tục giảm điểm thì Hastc-Index đảo chiều đi lên vào cuối phiên.

Trước thông tin tăng điểm vào cuối phiên trên từ thị trường Mỹ, mở cửa phiên giao dịch sáng nay 17/10, Vn-Index đã lại tăng nhẹ trở lại 1,16 điểm (tương đương 0,3%) lên 385,77 điểm với khối lượng giao dịch hơn 3,5 triệu đơn vị.

Trong toàn bộ thời gian của giao dịch đợt khớp lệnh liên tục và xác định giá đóng cửa phiên này, Vn-Index chỉ dao động nhẹ dưới mức tham chiếu, mức giảm nhẹ này được duy trì đến hết phiên giao dịch hôm nay.

Kết thúc phiên giao dịch cuối tuần, Vn-Index đã giảm nhẹ 2,1 điểm (tương đương giảm 0,55) xuống còn 382,51 điểm. Như vậy sau 1 tuần giao dịch Vn-Index tăng thêm được 3,45 điểm (tức tăng 0,91%) so với mức điểm đóng cửa cuối tuần trước.

Toàn thị trường có 11,687 triệu đơn vị giao dịch trị giá 365,177 tỷ đồng, tiếp tục giảm so với phiên giao dịch ngày hôm qua.

Trong tổng số 164 mã niêm yết trên HoSe đã có 93 mã tăng giá nhưng chỉ có 20 mã tăng trần, trong khi đó chỉ có 40 mã giảm giá với 15 mã giảm sàn, còn lại là 30 mã đứng giá và 1 mã không có giao dịch.

Trong nhóm cổ phiếu có mức vốn hóa lớn nhất trên sàn HoSe, chỉ có 3/10 mã tăng giá là FPT, HPG và STB trong đó FPT có mức tăng 2.000 đồng/CP còn HPG và STB cùng tăng nhẹ 200 đồng/CP. Trong nhóm này các mã giảm giá là VNM, SSI, VIC, PVD, PPC và DPM. Duy nhất VPL đứng giá.

Về khối lượng giao dịch, STB tiếp tục dẫn đầu với 1,26 triệu cổ phiếu, tiếp theo là SSI với 0,82 triệu, các mã còn lại có giao dịch dưới 0,5 triệu.

Kết thúc phiên giao dịch sáng nay, Hastc-Index tăng 1,04 điểm lên 125,32 điểm. Khối lượng giao dịch đạt hơn 6,13 triệu cổ phiếu, tương đương 178,46 tỷ đồng.

Top 5 các cổ phiếu tăng giá mạnh nhất trong phiên có tới 4 cổ phiếu thuộc “họ” Viglacera. Đó là các cổ phiếu HLY (Viglacera Hạ Long I), DTC (Viglacera Đông Triều), VTS (Viglacera Từ Sơn), DAC (Viglacera Đông Anh), 4 cổ phiếu này đều tăng trần từ đầu đến cuối phiên với khối lượng giao dịch rất thấp.

Các cổ phiếu giảm giá nhiều nhất sàn phiên này là VSP, MIC, CCM, SPP và NPS với mức giảm từ 2.000 - 3.700 đồng/CP. Trong đó, cổ phiếu CCM đã giảm phiên thứ 2 sau chuỗi tăng điểm 20 phiên liên tiếp.

Về khối lượng giao dịch, phiên này KLS tiếp tục dẫn đầu toàn thị trường với 643.500 cổ phiếu được chuyển nhượng, tiếp sau là ACB (485.900 cổ phiếu), NTP (353.300 CP), PVS và VCG cùng giao dịch trên 250.000 cổ phiếu. Ngoài KLS đứng giá, các cổ phiếu còn lại đều tăng nhẹ.

Theo ông Vương Thái Dũng, Phó Tổng giám đốc Tổng Công ty Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex), các mức điều chỉnh giảm tương ứng là: Xăng không chì RON 95 giảm xuống còn 16.500 đồng/lít, xăng RON 92 còn 16.000 đồng/lít; dầu hoả giảm 500 đồng, xuống còn 16.500 đồng/lít; và dầu diezen giảm thêm 300 đồng/lít, diezen 0,05S còn 15.200 đồng/lít, diezen 0,25S còn 15.150 đồng/lít.

Đơn vị kinh doanh xăng dầu chiếm 60% thị phần trong nước điều chỉnh giảm giá bán đúng vào thời điểm giá dầu trên thế giới hồi phục tăng nhẹ, lên gần 73 USD/thùng. Giá dầu đã có lúc giảm chạm ngưỡng 70 USD/thùng và giá xăng Mogas 92 tại Singapore, nơi cung ứng nhiên liệu cho các đầu mối xăng dầu Việt Nam, giảm xuống dưới 82 USD/thùng.

Còn theo xác nhận của ông Vương Đình Dung, Giám đốc Công ty Xăng dầu Quân đội thì kể từ 9h sáng nay, toàn bộ cây xăng trong hệ thống sẽ giảm giá bán lẻ xăng A92 xuống 16.000 đồng/lít và dầu diezen xuống 15.200 đồng/lít, tức là cùng với mức giảm của “người anh cả” Petrolimex.

Về sự chần chừ giảm giá bán lẻ xăng dầu của các doanh nghiệp đầu mối mấy ngày qua, đại diện một số doanh nghiệp cho biết họ đã trình phương án điều chỉnh giá xăng dầu với Tổ giám sát liên Bộ Tài chính - Công Thương về giá xăng dầu từ ngày 14/10 vừa qua, nhưng đến hôm qua (ngày 16/10) vẫn chưa thấy liên bộ phản hồi lại. Tuy nhiên, doanh nghiệp vẫn quyết định giảm giá xăng dầu bán lẻ kể từ sáng nay.

Dạo qua một số cây xăng tại Hà Nội, giá xăng dầu bán ra đã được Petrolimex điều chỉnh giảm xuống như công bố. Người dân khá vui vẻ nhưng cũng không khỏi thắc mắc về những mức giá điều chỉnh “nhỏ giọt” như trên của các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu đầu mối.

Chứng khoán Mỹ gượng dậy

|

Phố Wall hồi phục vào hôm qua 16/10, nhờ giá dầu giảm, và kết quả kinh doanh lạc quan của một số công ty. Bên cạnh đó, phiên giảm lớn thứ 2 trong lịch sử diễn ra trước đó đã đưa giá nhiều cổ phiếu về mức hấp dẫn.

Thị trường New York hôm qua biến động mạnh, sụt mạnh vào buổi sáng trước thông tin thua lỗ của Merrill Lynch và Citigroup cũng như số liệu cho thấy họat động sản xuất đang suy yếu. Tuy nhiên, giá hàng hóa cơ bản sụt giảm đã tạo ra bệ đỡ đẩy các chỉ số chính tăng điểm trở lại.

Chỉ số Dow Jones sau khi mất 380 điểm vào đầu giờ, đã hồi phục trở lại và lên một mạch 401 điểm, tương đương 4,68%, chốt ở 8.979,26 điểm. Nasdaq và Standard & Poor's 500 lần lượt đi lên với biên độ 5,49% và 4,25%.

Trong quý III, Citigroup báo lỗ 2,8 tỷ đôla, tương đương 60 cent một cổ phiếu. Merrill Lynch, tập đoàn được Bank of America mua lại, cũng mất tới 5,2 tỷ đôla, tương ứng với 5,58 đôla một cổ phiếu. Một tập đoàn tài chính khác là AIG cho biết, để vượt qua khó khăn hiện tại, sẽ dùng thêm 12 tỷ đôla trong quỹ hỗ trợ khẩn cấp của Chính phủ cho các định chế tài chính, nâng tổng số tiền nhận từ nguồn hỗ trợ bên ngoài lên 82,9 tỷ đôla.

Chứng khoán Mỹ hồi phục, tuy nhiên những số liệu mới công bố cho thấy kinh tế Mỹ vẫn còn nhiều vấn đề. Ảnh: cache.daylife.com.
Chứng khoán Mỹ hồi phục, tuy nhiên những số liệu mới công bố cho thấy kinh tế Mỹ vẫn còn nhiều vấn đề. Ảnh: cache.daylife.com.

Cùng ngày, đồng đôla hồi phục so với các ngoại tệ lớn khác báo hiệu thị trường tín dụng và cho vay giữa các ngân hàng đã nới lỏng phần nào. Dầu tiếp tục rẻ đi khi thống kê hàng tuần của Chính phủ cho thấy nguồn cung dầu thô và xăng đều lớn hơn dự tính. Kết phiên, giá dầu giảm 4,65 đôla, chốt tại mức 69,85 đôla một thùng, mức thấp nhất kể tử tháng 8/2007.

Theo các chuyên gia, dầu xuống do nhu cầu tiêu thụ của thế giới giảm sút, một dấu hiệu của trì trệ của kinh tế toàn cầu, rõ ràng không phải là một tín hiệu tốt với thị trường. Tuy nhiên, giới chứng khoán dường như đã bỏ qua thực tại này, bên cạnh đó một loạt chỉ báo kinh tế ảm đạm những gần đây cũng đang bị giới đầu tư bỏ qua.

Ngày mai, chứng khoán Mỹ sẽ đón thông tin về số nhà được cấp phép và xây mới trong tháng 9. Bên cạnh đó chỉ số tâm lý người tiêu dùng cũng được công bố. Trong phiên giao dịch cuối tuần, trước giờ mở cửa, Tổng thống Bush sẽ có một bài phát biểu ngắn.

Thị trường châu Á trải qua một ngày giao dịch ảm đạm khi giá chứng khoán tại các thị trường lớn đều rơi tự do. Chỉ số Nikkei 225 của Nhật phá kỷ lục cho một phiên giảm được lập vào 21 năm trước khi mất tới trên 11,4%. Kể từ đầu năm, 45% giá trị của Nikkei 225 đã "đội nón" ra đi.

Phiên giảm tại Nhật chịu tác động lớn từ những báo cáo kinh tế nghèo nàn của Mỹ hôm 15/10. Từ đó khiến nhà đầu tư mất lòng tin vào nhóm cổ phiếu của các nhà xuất khẩu, như Honda, Toyota, Sony v.v..., vốn phụ thuộc nhiều vào thị trường Mỹ.

Chỉ số Hang Seng của Hong Kong và Shanghai Composite của Trung Quốc đi xuống lần lượt 4,96% và 4,25%.

Chứng khoán châu Âu sụt mạnh do giới đầu tư bán tháo cổ phiếu của khối năng lượng, như Royal Dutch Shell, Total, và các ngân hàng, tiêu biểu là HSBC hay Stantander. Tại Anh, chỉ số FTSE 100 mất 5,35%. DAX của Đức cũng lao dốc 4,91%. Mọi chuyện với chứng khoán Pháp thậm chí còn tệ hơn khi chỉ số CAC 40 bị trừ tới 5,92%.

Trong khi các nhà đầu tư đang lo "sốt vó" vì các chỉ số chứng khoán và hàng hóa cơ bản đua nhau sụt giảm vì nguy cơ suy thoái kinh tế, hoạt động tại sàn giao dịch rượu quý lại rất sôi động.

Hãng The Whisky Talker của Hà Lan lập ra sàn giao dịch rượu quý cách đây 11 tháng, do nhu cầu tăng cao và mọi người sẵn sàng trả nhiều tiền để sở hữu chúng. Hàng hóa niêm yết tại sàn là các chai whisky quý hiếm. Trong gần một năm qua, World Whisky Index, hàn thử biểu cho... rượu whisky trên toàn cầu, đã tăng tới 26,3%, trái ngược với kết quả giảm hơn 40% của chỉ số MSCI của chứng khoán toàn cầu.

Đầu tư vào chỉ số Whisky
Đầu tư vào chỉ số Whisky "hời" hơn nhiều so với rót tiền vào chứng khoán và hàng hóa cơ bản. Ảnh: wineterroirs.com.

Kể từ khi đi vào hoạt động tháng 11/2007, chỉ số whisky đã đón nhận dòng tiền đầu tư hơn 2,7 triệu đôla. Và hiện có tới 4.498 chai rượu đang được giao dịch.

Tăng giá nhiều nhất trong số đó là chai Bowmore 30 năm tuổi xuất xứ Scotland. "Mã" này đã tăng tới 137% và hiện có giá khoảng 450 euro. Mất giá mạnh nhất là một chai Convalmore 15 năm tuổi, trượt giá 27% trong 11 tháng gần đây, xuống còn 80 euro.

Theo lời phát ngôn viên của The Whisky Talker, đầu tư vào chỉ số rượu là an toàn, ngay cả khi nguy cơ suy thoái kinh tế đang đến gần như hiện nay. Lời giải thích được đưa ra là cổ phiếu có thể mất giá và trở thành giấy lộn, trong khi bất kể điều tồi tệ gì xảy ra, ít nhất bạn vẫn còn rượu để uống.

VNE

Phiên giao dịch cuối tuần ngày 17/10, thị trường chứng khoán Việt Nam phản ứng khá thận trọng với một số thông tin trong ngày. Mặc dù số mã cổ phiếu tăng giá khá nhiều nhưng một số mã cổ phiếu lớn giảm giá đã kéo VN-index tiếp tục di lùi.

Sức tăng khá mạnh của thị trường chứng khoán Mỹ trong phiên giao dịch kết thúc rạng sáng nay theo giờ Việt Nam cũng chưa đủ để thúc đẩy giới đầu từ tham gia thị trường quyết liệt hơn, bởi chính những phiên tăng giảm bất thường trên thị trường này là điều khó khăn xác định xu hướng thị trường trong nước khi thời gian gần đây VN-Index luôn có những phản ứng khá sát với diễn biến bên ngoài.

Một thông tin khác cũng đáng chú ý là việc giảm giá xăng dầu thêm 500 đồng/lít được Petrolimex xác nhận tuy nhiên mức giảm nhỏ giọt mặt hàng quan trọng cho hoạt động sản xuất kinh doanh này cũng không tác động nhiều đến thị trường phiên giao dich hôm nay.

Đón niềm vui từ thị trường Mỹ, mở cửa phiên giao dịch sáng nay, VN-Index đã lại tăng nhẹ trở lại 1,16 điểm (tương đương tăng 0,3%) lên 385,77 điểm. Sự thận trọng phiên giao dịch này thể hiện khá rõ qua sức bật của thị trường cũng như khối lượng giao dịch trong đợt 1 với chỉ hơn 3,5 triệu đơn vị được chuyển nhượng, giá trị là 109,54 tỷ đồng.

Trong toàn bộ thời gian của giao dịch đợt khớp lệnh liên tục và xác định giá đóng cửa phiên này, VN-Index chỉ dao động nhẹ dưới mức tham chiếu, mức giảm nhẹ này được duy trì đến hết phiên giao dịch hôm nay.

Kết thúc phiên giao dịch cuối tuần, VN-Index đã giảm nhẹ 2,1 điểm (tương đương giảm 0,55) xuống còn 382,51 điểm. Như vậy sau 1 tuần giao dịch với 3 phiên giảm và 2 phiên tăng điểm VN-Index vẫn tăng thêm được 3,45 điểm (tức tăng 0,91%) so với mức điểm đóng cửa cuối tuần trước.

Tổng khối lượng giao dịch của cổ phiếu và chứng chỉ quỹ được khớp lệnh thành công phiên này tiếp tục giảm nhẹ cả về khối lượng và giá trị so với phiên hôm qua. Cụ thể đã có hơn 11,4 triệu đơn vị được khớp lệnh với giá trị là 351,57 tỷ đồng (đã giảm hơn 10% về khối lượng và giảm 5% về giá trị).

Trong tổng số 160 mã cổ phiếu và 4 chứng chỉ quỹ niêm yết phiên này, số mã cổ phiếu tăng giá chiếm áp thế áp đảo nhưng hầu hết đều có mức tăng nhẹ. Cụ thể đã có 93 mã tăng giá (trong đó chỉ có 20 mã tăng trần), trong khi đó chỉ có 40 mã giảm giá (trong đó có 15 mã giảm sàn), còn lại là 30 mã đứng giá và 1 mã không có giao dịch.

Với chỉ 25% số mã chứng khoán niêm yết giảm giá nhưng VN-Index vẫn không thể tăng điểm bởi sức ì từ các mã cổ phiếu lớn trên sàn, chỉ có 3/10 mã cổ phiếu vốn hoá lớn nhất tăng giá nhẹ.

Cụ thể, các mã tăng giá là FPT của CTCP Đầu tư Phát triển Công nghệ FPT (+2.000 đồng lên 78.000 đồng/cp), HPG của Hoà Phát (+200 đồng lên 41.700 đồng/cp) và STB của Sacombank (+200 đồng lên 21.900 đồng/cp).

Trong khi đó, 2 mã giảm sàn là VNM của Vinamilk (-4.000 đồng xuống 81.500 đồng/cp) và SSI của CTCP Chứng khoán Sài Gòn (-1.900 đồng xuống 36.600 đồng/cp). Ngoài ra VIC của Vincom, PVD của PV Drilling, PPC của Nhiệt diện Phả lại. DPM của Đạm Phú Mỹ và VPL của Vinpearl JSC phiên này đứng giá.

Các cổ phiếu khác có khối lượng niêm yết lớn khác cũng giảm giá như: REE của Cơ điện Lạnh, NKD và KDC của Kinh Đô, ITA của ITACO, DQC của Điện Quang...cũng là gánh nặng đối với VN-index trong phiên này.

Về khối lượng giao dịch, các cổ phiếu lớn vẫn là các mã có thanh khoản khá nhất: STB (1,26 triệu cp), SSI (0,82 triệu cp), HPG (0,48 triệu cp), FPT (0,38 triệu cp), SAM (0,38 triệu cp), VNM (0,38 triệu cp), PPC (0,37 triệu cp), MPC (0,36 triệu cp)...

Chi tiết giao dịch ngày 17/10:
(Đơn vị giá: 1.000đ; Đơn vị KL: 1 CP)

Mã CK

Giá cao nhất

Giá thấp nhất

Giá đóng cửa

Thay đổi

%Thay đổi

Khối lượng

ABT

32.5

31.3

32

0.7

2.24

2,410

ACL

36.2

35.5

36.2

1.4

4.02

6,550

AGF

21.5

20.6

21.3

-0.2

-0.93

24,430

ALP

11.4

10.9

11.4

0

0.00

95,070

ALT

28.8

28.8

28.8

0.2

0.70

10

ANV

30.5

28.8

28.8

-1.5

-4.95

56,530

ASP

13.2

12.6

12.6

-0.4

-3.08

35,510

BBC

18.2

17.3

17.9

0

0.00

32,560

BBT

6.4

6.4

6.4

0.3

4.92

38,240

BHS

15

14

15

0.4

2.74

12,940

BMC

99.5

95

98

3

3.16

38,380

BMI

20.4

19.5

20.4

0

0.00

16,820

BMP

39.2

37

37

-0.6

-1.60

10,640

BPC

13.2

13.2

13.2

-0.1

-0.75

8,000

BT6

56.5

53.5

53.5

-1

-1.83

210

BTC

31.5

31.5

31.5

-1.6

-4.83

10

CAN

12.5

12.1

12.5

0

0.00

8,500

CII

28

26.7

27.5

0.5

1.85

33,410

CLC

18.8

17.6

17.8

-0.6

-3.26

1,670

CNT

15.8

15.1

15.4

0

0.00

14,880

COM

33.6

30.8

32.3

0

0.00

4,910

CYC

15.7

15.3

15.7

0.7

4.67

29,360

DCC

13.4

13.2

13.4

0.6

4.69

22,760

DCL

57

53.5

56.5

1.5

2.73

30,250

DCT

11

10.7

10.9

0

0.00

12,950

DDM

21.8

21.8

21.8

1

4.81

4,800

DHA

19.8

19

19.8

0.8

4.21

55,700

DHG

117

115

117

3

2.63

10,190

DIC

17.5

16.7

17.5

0.8

4.79

67,770

DMC

63

60

62

2

3.33

21,090

DNP

11.9

11.5

11.5

0

0.00

8,550

DPC

13.3

13.3

13.3

-0.7

-5.00

7,060

DPM

53

52

52

0

0.00

324,530

DPR

52

51.5

52

-2

-3.70

42,630

DQC

22.5

21.7

22

-0.8

-3.51

72,380

DRC

29

28.5

28.5

-1.4

-4.68

24,410

DTT

12.7

12

12.7

0.5

4.10

3,020

DXP

28

27.2

27.6

0.4

1.47

18,770

DXV

9.5

9.4

9.4

0

0.00

8,400

FBT

18.2

17.1

17.9

0

0.00

98,560

FMC

13.5

13.2

13.2

0

0.00

16,010

FPC






0

FPT

79.5

77

78

2

2.63

380,430

GIL

17

16.4

16.4

0

0.00

18,400

GMC

16.9

16.5

16.5

-0.2

-1.20

3,020

GMD

44

43.5

44

1

2.33

41,450

GTA

12.4

12

12

0

0.00

4,060

HAP

23.5

22.5

23.5

0.8

3.52

66,010

HAS

13.8

13.3

13.5

0.2

1.50

7,700

HAX

22

22

22

0.8

3.77

10

HBC

19.6

18.2

19.3

0.3

1.58

27,410

HBD

12.5

11.5

12.5

0.5

4.17

3,200

HDC

23.9

23.6

23.9

1.1

4.82

36,740

HMC

19.1

18.3

18.9

0.3

1.61

21,770

HPG

42

41.3

41.7

0.2

0.48

479,770

HRC

36.7

36.7

36.7

-1.9

-4.92

20,690

HSI

17

16.9

16.9

-0.1

-0.59

21,990

HT1

16.2

15.5

15.8

0.3

1.94

38,670

HTV

11.1

10.8

11

0

0.00

34,730

ICF

10.4

10.1

10.1

0.1

1.00

14,900

IFS

10.2

10

10.2

0.4

4.08

7,130

IMP

88

82.5

82.5

-3

-3.51

20,500

ITA

31

30.9

30.9

-1.6

-4.92

265,450

KDC

36

34.9

35.2

-0.3

-0.85

127,700

KHA

12.6

12.2

12.5

-0.1

-0.79

27,640

KHP

12.3

11.7

11.8

-0.4

-3.28

148,520

KMR

9.4

9.1

9.1

-0.4

-4.21

57,040

L10

13.1

12.5

12.5

0

0.00

3,020

LAF

17

16.2

16.5

0

0.00

68,400

LBM

23.5

22

23.4

0.5

2.18

48,210

LGC

23.7

22.2

23.7

0.4

1.72

6,160

LSS

15.5

14.9

15.4

0.1

0.65

4,290

MAFPF1

4.8

4.6

4.8

0

0.00

27,650

MCP

14.2

13.5

14.2

0.4

2.90

9,100

MCV

12.8

12.2

12.8

0.1

0.79

37,990

MHC

13.2

13.2

13.2

0.6

4.76

40,920

MPC

13.2

13

13.2

0.6

4.76

364,360

NAV

15

14.2

15

0.1

0.67

27,200

NHC

40.2

39.6

40.2

1.7

4.42

26,440

NKD

35.9

35.9

35.9

-1.8

-4.77

36,450

NSC

29

27.4

29

0.2

0.69

33,280

NTL

43.6

43.6

43.6

2

4.81

76,330

PAC

43.3

42.9

43.3

0.8

1.88

32,100

PET

20

19.5

19.9

0.4

2.05

79,780

PGC

12.7

12.5

12.7

0

0.00

14,480

PIT

17.4

17

17

0.1

0.59

3,910

PJT

14.7

14

14.4

0.2

1.41

6,200

PMS

20

19

19

-1

-5.00

150

PNC

11.5

11

11.2

-0.1

-0.88

4,520

PPC

26.2

25.8

26

-0.6

-2.26

377,010

PRUBF1

4.5

4.3

4.5

0.1

2.27

100,020

PVD

84

82.5

82.5

-0.5

-0.60

134,610

PVT

19.8

19

19.7

0.7

3.68

287,490

RAL

35.5

32.6

35.5

1.5

4.41

14,470

REE

29.1

28.1

28.1

-0.9

-3.10

189,680

RHC

21

21

21

0

0.00

1,050

RIC

17

16.4

16.5

-0.5

-2.94

790

SAF

23.1

23

23

1

4.55

7,650

SAM

18.8

18

18.6

0

0.00

379,930

SAV

13.8

13

13.8

0.5

3.76

6,350

SBT

10.6

10.2

10.4

0

0.00

117,480

SC5

30

29.4

29.6

0.2

0.68

76,550

SCD

18

16.7

18

0.8

4.65

3,570

SDN

21

21

21

0.1

0.48

20

SFC

40

40

40

0.6

1.52

270

SFI

48

46.3

47.5

1.4

3.04

27,950

SFN

12.7

11.6

11.6

-0.6

-4.92

550

SGC

14.5

14.3

14.5

0.4

2.84

8,920

SGH

88

88

88

3

3.53

200

SGT

28.4

27.2

28.4

1.3

4.80

143,000

SHC

41

38.9

40.8

-0.1

-0.24

11,090

SJ1

17.2

17.2

17.2

0.8

4.88

10,550

SJD

15.7

15.4

15.7

0.2

1.29

13,980

SJS

64

62

64

0

0.00

199,980

SMC

26.5

26.5

26.5

1.2

4.74

47,590

SSC

21.8

20.8

21.8

1

4.81

23,200

SSI

38.5

36.6

36.6

-1.9

-4.94

821,340

ST8

31.4

30

31.4

1.4

4.67

6,410

STB

22

21.7

21.9

0.2

0.92

1,263,300

SZL

56.5

56.5

56.5

2.5

4.63

5,610

TAC

37.5

36

37.1

0.7

1.92

68,310

TCM

11.2

10.6

11

0.2

1.85

78,880

TCR

11

10.7

11

0.3

2.80

6,600

TCT

97.5

92.5

97.5

4.5

4.84

8,220

TDH

30.4

28.9

28.9

-1.5

-4.93

236,790

TMC

32

31

32

1.1

3.56

12,340

TMS

41.5

41.5

41.5

1.3

3.23

90

TNA

21

20

20.5

0.5

2.50

4,410

TNC

12.8

12.2

12.4

-0.4

-3.13

84,690

TPC

8.6

8.3

8.6

0.2

2.38

51,210

TRC

43.5

43.4

43.4

-2.2

-4.82

95,080

TRI

14.3

13.8

14.3

0.6

4.38

13,850

TS4

13

12.3

12.9

0

0.00

15,510

TSC

60

60

60

2.5

4.35

2,580

TTC

11.1

10.1

11.1

0.5

4.72

18,730

TTF

22.2

21

22.2

0.8

3.74

8,320

TTP

20.6

19.5

20

0.1

0.50

81,000

TYA

15.9

15.4

15.9

0.4

2.58

34,500

UIC

12.6

11.9

11.9

-0.2

-1.65

6,810

UNI

15.7

15

15.7

0

0.00

18,980

VFC

11

10.3

10.5

0

0.00

41,430

VFMVF1

9.9

9.7

9.8

0.1

1.03

68,730

VFMVF4

5.7

5.5

5.7

0.1

1.79

330,920

VGP

26

25

26

1

4.00

5,550

VHC

26.3

24.7

26.3

0.6

2.33

1,740

VHG

11.1

10.6

10.6

-0.5

-4.50

43,650

VIC

85

81.5

81.5

-3

-3.55

72,950

VID

10.6

10.5

10.6

0.1

0.95

47,120

VIP

15.4

15

15.3

0.2

1.32

119,720

VIS

26.7

26.7

26.7

1.2

4.71

5,210

VKP

9.7

9.2

9.6

0.1

1.05

43,610

VNA

30.8

29

29

-0.8

-2.68

68,080

VNE

10

9.5

9.5

-0.3

-3.06

203,930

VNM

85

81.5

81.5

-4

-4.68

378,900

VNS

21.6

21.3

21.6

1

4.85

45,300

VPK

10

9.7

10

0.3

3.09

5,860

VPL

98

97

97.5

0

0.00

60,710

VSC

71.5

69.5

71

2.5

3.65

68,170

VSG

15.6

14.5

15.2

0

0.00

2,120

VSH

29.2

28.6

29.2

1.2

4.29

157,640

VTA

9.6

9.3

9.6

0

0.00

9,940

VTB

17

16.2

17

0

0.00

1,550

VTC

12.8

12.4

12.8

0.4

3.23

3,140

VTO

15.9

15.4

15.8

0.3

1.94

344,950