Việt Nam tăng 6 bậc trong xếp hạng kinh doanh toàn cầu

Tuesday, October 21, 2008 |

Báo cáo công bố ngày 19/10 của Công ty Tình báo Kinh tế có chi nhánh tại Mỹ cho biết Việt Nam có được sự tăng hạng do môi trường kinh doanh được cải thiện sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).

Công ty chuyên giúp các hãng khởi nghiệp và quản lý hoạt động đầu tư tại nước ngoài này tin tưởng rằng Việt Nam sẽ đạt nhiều tiến bộ trong việc thực hiện cam kết của WTO về tự do hóa thương mại.

Trong bản tin "Dự báo quốc gia tháng 10/2008", phần nói về Việt Nam, Công ty Tình báo Kinh tế cho rằng trong hai năm 2009 và 2010, Việt Nam sẽ cải thiện môi trường hoạt động cho các doanh nghiệp tư nhân, thực hiện nhiều luật mới và đến giai đoạn 2011 - 2013 sẽ có thêm nhiều doanh nghiệp nhà nước tiến hành cổ phần hóa.

Công ty cho biết thêm một hệ thống thuế thu nhập cá nhân sửa đổi sẽ được áp dụng từ tháng 1/2009 và khi đó người lao động nước ngoài và người lao động Việt Nam được hưởng cùng một mức thuế (hiện nay mức thuế thu nhập mà người nước ngoài phải trả cao gấp đôi mức thuế áp dụng cho người Việt Nam).

Ngoài ra, từ năm 2009, các ngân hàng thương mại nhà nước sẽ cổ phần hóa và đến năm 2011, hoạt động của các ngân hàng nước ngoài sẽ ít bị giới hạn hơn. Công ty Tình báo Kinh tế dự báo tăng trưởng GDP thực tế của Việt Nam trong năm 2009 sẽ là 5,3%.

Tuy nhiên, theo công ty này, các nhà đầu tư nước ngoài vẫn tin tưởng vào viễn cảnh kinh doanh ở Việt Nam và cam kết đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tăng lên 57 tỉ USD trong giai đoạn từ tháng 1 đến 9/2008.

Vn-Index loanh quanh mốc 380 điểm

|

NHNN quyết định nới lòng chính sách tiền tệ, giá tiêu dùng tháng 10 tại TPHCM giảm xuống mức thấp, thông tin thị trường chứng khoán Mỹ tăng mạnh trong khi đó các thị trường chủ chốt ở Châu Á cũng có dấu hiệu khởi sắc trở lại sau thời gian dài mất điểm…

… những thông tin như vậy khiến mở cửa phiên giao dịch sáng nay cổ phiếu ồ ạt tăng giá với sức cầu tăng lên rõ rệt, Vn-Index kết thúc đợt 1 tăng mạnh 8,73 điểm (tương đương 2,35%) lên 379,53 điểm.

Khối lượng trong đợt 1 đã tăng mạnh với hơn 5,5 triệu đơn vị được giao dịch giá trị tương ứng là 155,85 tỷ đồng.

Bước sang đợt khớp lệnh liên tục một số cổ phiếu lớn bất ngờ xuống giá khiến đà tăng của Vn-Index chậm lại, có lúc chỉ còn duy trì được mức tăng nhẹ. Tuy nhiên đến cuối đợt 2, thị trường lại dần phục hồi, Vn-Index chung cuộc vẫn tăng khá mạnh 9,14 điểm (tương đương 2,46%) lên 379,94 điểm.

Mốc điểm này đã giúp Vn-Index tạo được khoảng cách tạm thời khá an toàn trước đáy 366 điểm.

Thanh khoản của thị trường được cải thiện rõ trước sức mua đã tăng lên khá nhiều, toàn thị trường có 16,993 triệu đơn vị giao dịch trị giá 566,618 tỷ đồng. Trong tổng số 164 mã niêm yết trên Hose đã có đến 123 mã tăng giá (trong đó có 43 mã tăng trần), 14 mã giữ mức tham chiếu và 27 mã giảm giá (13 mã giảm sàn).

Nhóm 10 mã cổ phiếu có mức vốn hoá lớn nhất trên Hose đều đã tăng giá. Có 3 mã tăng trần phiên này là STB, FPT và PVD, các mã còn lại có mức tăng nhẹ.

Nhóm cổ phiếu giảm giá có một số mã đáng chý ý như SJS, NKD, TSC, TAC và nhóm cổ phiếu ngành cao su của DRC, HRC, TRC, DPR.

Về giao dịch, phiên này các mã cổ phiếu blue-chips vẫn là các mã được giao dịch nhiều nhất như: STB với 2,48 triệu cổ phiếu được chuyển nhượng thành công, tiếp theo là SSI với 1,19 triệu, các mã tiếp theo có giao dịch dưới 1 triệu đơn vị.

Bên sàn Hà Nội, Hastc-Index đã hồi phục trở lại vào cuối phiên với mức tăng 3,71 điểm lên 126,81 điểm. Giao dịch được đẩy mạnh so với hôm qua 20/10 với hơn 7,89 triệu cổ phiếu được chuyển nhượng, giá trị giao dịch đạt 224,95 tỷ đồng.

Đóng cửa phiên giao dịch, toàn thị trường có 103 cổ phiếu tăng giá, 34 cổ phiếu giảm giá, còn lại đứng giá hoặc không có giao dịch. Các cổ phiếu tăng giá nhiều nhất phiên này là MIC (tăng 3.100 đồng), HLY và MMC (tăng 3.000 đồng), YSC (tăng 2.700 đồng), DTC (tăng 2.600 đồng).

Trong khi đó, các cổ phiếu giảm giá mạnh nhất sàn là VSP (giảm 5.700 đồng), CCM (giảm 4.700 đồng), SPP (giảm 2.600 đồng), NPS (giảm 1.700 đồng) và NGC (giảm 1.300 đồng).

Về khối lượng giao dịch, cổ phiếu ACB đứng đầu thị trường với hơn 1,25 triệu cổ phiếu, KLS (848.500 CP), HPC (471.900 CP), PVI (351.100 CP), PVS (287.900 CP).

Theo công bố của một số cửa hàng ngoại tế lớn trên phố Hà Trung (Hà Nội), lúc hơn 11h sáng nay, giá USD dao động quanh ngưỡng 16.850 VND (mua vào) - 16.950 VND (bán ra), tăng 250 VND so với trưa qua. Trước đó ít phút, giá USD có mức 16.750 VND - 16.850 VND.

Tỷ giá VND/USD trên thị trường tự do đang biến động mạnh; trong khi tỷ giá bình quân liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước công bố cho ngày 21/10 là 16.519 VND/1 USD, giảm 1 VND so với hôm qua. Nhưng tỷ giá giao dịch của ngân hàng thương mại lại tăng lên 16.720 VND - 16.800 VND, tăng 30 VND.

Một số chuyên gia tài chính cho hay, tỷ giá VND/USD trên thị trường tự do tăng mạnh là do các đầu mối cung cấp USD đón đầu trước một số thông tin về cầu ngoại tệ thường tăng lên vào những tháng cuối năm, để phục vụ nhu cầu nhập khẩu hàng hoá.

Một yếu tố chi phối mặt bằng giá trên thị trường hôm nay còn do giá USD trên thế giới tăng mạnh so với các đồng tiền chủ chốt khác.

Tuy nhiên, xét về tổng thể thì việc USD tăng giá trong thời điểm hiện này lại là một dấu hiệu bất thường. Bởi các hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam vẫn diễn ra bình thường, nhập siêu và lạm phát đang được kiềm chế, chỉ số giá tiêu dùng có thể giảm nhẹ trong tháng 10.

Do đó, người dân trong nước không vì những biến động nhất thời mà đổ xô đi mua USD tích trữ.

Trái ngược với cơn sốt giá bất thường trên thị trường ngoại tệ, giá vàng sáng nay gần như không thay đổi so với chốt phiên chiều qua.

Theo công bố của SJC Hà Nội, giá vàng SJC đang dao động ở mức: 1,705 triệu đồng/chỉ (mua vào) - 1,72 triệu đồng/chỉ (bán ra); vàng Bảo Tín Minh Châu là 1,705 triệu đồng/chỉ - 1,715 triệu đồng/chỉ.

Trên thế giới, kết thúc phiên giao dịch hôm qua, giá vàng giao kỳ hạn tháng 12 tại New York tăng 2,3 USD, lên mức 790 USD/ounce; giá vàng giao ngay cũng tăng lên 795USD/ounce. Sáng nay, tại châu Á, giá vàng giao ngay trên Kitco.com ở mức 799,5 USD/ounce, với biên độ tăng 4,5 USD.


Sau 10 phiên bán ròng liên tiếp tính tới hôm nay, tổng lượng chênh lệch bán mua của khối nhà đầu tư nước ngoài đã lên tới 22,6 triệu đơn vị - bằng 20% khối lượng mua ròng trong 9 tháng trước đó.

Cụ thể phiên giao dịch hôm nay, lượng mua vào của khối ngoại được giữ ở mức tương đương hôm qua, với 1,16 triệu đơn vị còn lượng bán ra tăng 20% lên 3,15 triệu đơn vị.

Khối lượng mua bán của nhà đầu tư nước ngoài
trong 10 phiên gần đây.

Vài phiên gần đây, trong khi nhiều cổ phiếu lớn bị bán ra thì 2 chứng chỉ quỹ VF1 và VF4 lại được đều đặn mua vào. Với lượng mua đạt 177.000 đơn vị thì VF1 là chứng khoán được mua vào nhiều nhất trong hôm nay.

Dẫn đầu phía bán ra vẫn là một số cổ phiếu có tính thanh khoản cao trong những phiên gần đây như ITA, DPM, VIS, SAM…

Trong ngày hôm nay, giá USD có dấu hiệu tăng cùng với việc nhà đầu tư nước ngoài liên tiếp bán ra khiến nhiều nhà đầu tư nghi ngại về sự tháo chạy dòng vốn nước ngoài.

Bình luận của Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang (FED) và tín hiệu tích cực từ thị trường cho vay liên ngân hàng giúp phố Wall tăng mạnh. Tin tốt từ Mỹ cũng giúp thị trường châu Âu và châu Á có bước tiến đáng kể.

Sau phiên đầu tuần, 20/10, chỉ số Công nghiệp Dow Jones tăng 413 điểm, tương đương 4,67, chốt tại 9.365,43 điểm. Chỉ số Nasdaq đi lên 3,43%, hiện có giá 1.711,29 điểm. Chỉ số Standard & Poor 500 đóng cửa tại 985,4, cao hơn phiên trước 4,77%.

Hôm qua, Chủ tịch FED, ông Ben Bernanke cho hay, kế hoạch về gói hỗ trợ kinh tế thứ hai đang được đưa ra thảo luận. Theo ông, nền kinh tế có thể tiếp tục yếu trong nhiều quý cùng với đó là rủi ro của suy thoái, Quốc hội Mỹ nên cân nhắc thực hiện tiếp một gói hỗ trợ tài chính khác. Chính phủ của Tổng thống Bush phản ứng khá tích cực và cho biết ý tưởng này đang được nghiên cứu. Trước đó, những thành viên của Đảng Dân chủ cũng có quan điểm, giải pháp kích thích kinh tế lần hai là cần thiết.

Ngoài ra, những bình luận của Bộ trưởng Tài chính, ông Henry Paulson, cùng những chuyển biến tốt về lãi suất cho vay khiến giới đầu tư tin rằng thị trường tín dụng đang dần được nới lỏng. Ông Paulson cho biết, nhóm các ngân hàng hàng đầu có thể sẽ tham gia vào kế hoạch thứ hai do Chính phủ đề xuất, đầu tư trực tiếp 250 tỷ đôla vào các định chế cho vay. Theo ông Paulson, kế hoạch lần này phải thực sự hướng tới quyền lợi cho người đóng thuế.

Theo ông Dave Rovelli, Giám đốc Điều hành tại Canaccord Adams, phố Wall khởi sắc không chỉ do những phát biểu trên mà còn vì mọi người đang tin rằng, suy thoái nếu có xảy ra cũng không kéo dài như một số người lo ngại.

Chứng khoán châu Á, sau tuần giảm mạn trước đó, đã mở hàng tuần mới bằng một phiên tăng. Ảnh: mofcom.gov.cn.
Chứng khoán châu Á, sau tuần giảm mạnh trước đó, đã mở hàng tuần mới bằng một phiên tăng. Ảnh: mofcom.gov.cn.

Tại châu Á, Hàn Quốc, nước đang khốn đốn vì khủng hoảng tài chính, vừa cho hay sẽ sử dụng 130 tỷ đôla tương đương 13% GDP để chống lại khủng hoảng. Trong đó, 30 tỷ đôla sẽ dùng để hỗ trợ thanh khoản cho các ngân hàng, phần còn lại sẽ dùng để bảo đảm cho các khoản vay. Thị trường chứng khoán Hàn Quốc nhờ đó lên trở lại với mức tăng 2,28% của chỉ số KOSPI.

Chứng khoán Nhật cũng khởi sắc. Cổ phiếu của các nhà xuất khẩu lớn như Honda, Sony, Toyota hồi phục đã kéo chỉ số Nikkei 225 lên 3,59%. Chỉ số Shanghai và Hang Seng của Trung Quốc và Hong Kong, hai thị trường có tính liên thông cao, cùng tiến thêm 2,25% và 5,28%.

Tại châu Âu nhà đầu tư tại cả ba thị trường lớn là Anh, Pháp, Đức có một ngày giao dịch tốt lành khi các chỉ số chính đồng loạt tăng điểm. Chỉ số FTSE 100 của Anh lên 5,41%, chỉ DAX của Đức được cộng 1,12%. Chỉ số CAC 40 của Pháp cao hơn phiên trước 3,56%.

Vn-Index lấy lại nhịp tăng

|

Hôm nay, Vn-Index đã có phản ứng tích cực khi lãi suất cơ bản xuống còn 13%. Khựng lại đà tuột dốc, chỉ số chứng khoán sàn TP HCM leo lên 379,94 điểm.

Những thông tin tích cực của lĩnh vực tài chính ngân hàng đã phát huy tác dụng trong phiên sáng nay. Ngay từ đợt khớp lệnh đầu tiên, các mã niêm yết không kể lớn nhỏ đồng thuận đi lên, kéo Vn-Index vượt một mạch 8,73 điểm. Nhà đầu tư đã mạnh tay mua vào, nâng khối lượng giao dịch 5,57 triệu chứng khoán, gần gấp đôi so với cùng đợt hôm qua, tương ứng 155,8 tỷ đồng.

Giao dịch diễn ra khá sôi động trong đợt khớp lệnh liên tục. Sự hưng phấn tăng điểm của hơn 90 mã niêm yết tạo niềm tin cho nhà đầu tư về một phiên đảo chiều trọn vẹn của Vn-Index, dù những tên tuổi lớn như SSI, SJS, TDH "lạc điệu" so với nhiều mã khác. Có tổng cộng 13,79 triệu cổ phiếu và chứng chỉ quỹ "sang tay", đạt giá trị 412,4 tỷ đồng.

Bằng cú lội ngược dòng trong phiên hôm nay, Vn-Index đã chấm dứt chuỗi giảm điểm kéo dài 3 phiên liên tiếp.. Ảnh: H.P.

Những chính sách mới công bố của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, doanh nghiệp trong thời gian tới sẽ dễ thở hơn khi lãi suất cơ bản được điều chỉnh giảm, làm tăng khả năng hoàn thành kế hoạch doanh thu, lợi nhuận đúng hạn. Bên cạnh đó, nhà băng cũng phần nào cởi trói áp lực chi phí vốn và lợi nhuận với việc tăng gấp đôi lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc; đồng thời được thanh toán trước hạn tiền mua tín phiếu bắt buộc.

Ngoài ra, TP HCM cũng vừa công bố CPI tháng 10 tiếp tục giảm so với tháng trước, kéo tốc độ tăng giá tiêu dùng hãm lại. Những thông tin này đã trấn an tâm lý nhà đầu tư, tạo cú hích đẩy chứng khoán bật xanh trở lại. Cùng tín hiệu tích cực đó, tính thanh khoản thị trường cải thiện hơn so với phiên liền trước, khi có gần 17 triệu chứng khoán (tính cả thỏa thuận và khớp lệnh) giao dịch, tương đương 565,7 tỷ đồng.

Kết phiên có hơn 120 mã đi lên. Nhóm 10 cổ phiếu có giá trị vốn hóa lớn nhất sàn HOSE đã không còn sự phân hóa mà đi theo một chiều hướng tăng duy nhất, với mức dao động trong khoảng 0,3-3,5 điểm.

STB hôm nay tiếp tục dẫn đầu thị trường về khối lượng giao dịch, với 2,48 triệu cổ phiếu. Kế đế là SSI (1,19 triệu cổ phiếu), DPM (889.860 cổ phiếu), ITA (853.640 cổ phiếu).

Cùng xu hướng quay đầu với sàn TP HCM, HaSTC-Index của sàn Hà Nội cũng đảo chiều tăng 3,71 điểm (3,01%), chốt ở 126,81 điểm. Tổng khối lượng giao dịch toàn thị trường đạt 8,1 triệu chứng khoán, trị giá 232,7 tỷ đồng.

Hàng 'khủng' sắp chào sàn HOSE

|

500 triệu cổ phiếu PVF vừa được HOSE chấp thuận niêm yết sẽ trở thành một trong những mã có giá trị vốn hóa lớn nhất sàn TP HCM.

Tổng công ty tài chính cổ phần Dầu khí Việt Nam (PVFC) sẽ niêm yết trên sàn HOSE số cổ phiếu lên đến nửa tỷ. Tổng giá trị cổ phiếu tính theo mệnh giá lên tới 5 nghìn tỷ đồng.

Sau 3 quý, doanh thu của PVFC đạt 57,7% kế hoạch năm, với 2.886 tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế ở mức 49,72% so với chỉ tiêu đề ra trong năm 2008. Trong đó Tổng công ty đã trích lập dự phòng rủi ro tín dụng và đầu tư 946,4 tỷ đồng. Dự kiến, vào đầu quý IV, cổ phiếu PVF sẽ chính thức niêm yết tại sàn TP HCM. Hai sản phẩm mũi nhọn mà PVFC chú trọng là đầu tư tài chính, tư vấn tài chính

Theo số liệu OTC từ Công ty chứng khoán Rồng Việt, cổ phiếu PVF cập nhật vào gần 10 giờ hôm nay với giá bình quân 29.500 đồng.

Sau khi chính thức lên sàn, PVFC sẽ trở thành một trong những cổ phiếu có giá trị vốn hóa lớn nhất HOSE. Nếu so sánh với giá trị hiện tại của cổ phiếu PVFC và giá trị vốn hóa của HOSE trong ngày 20/10 (ước khoảng 181 nghìn tỷ đồng), PVFC sẽ chiếm khoảng 8% giá trị của toàn sàn, sau DPM (10,89%).

Trong tháng 10, Sở giao dịch chứng khoán TP HCM cũng đã chấp thuận cho công ty cổ phần Basaco niêm yết 9,6 triệu cổ phiếu BAS; 8 triệu cổ phiếu CAD (công ty cổ phần chế biến và xuất nhập khẩu thủy sản Cadovimex). Ngoài ra, HOSE cũng đã chấp thuận niêm yết về nguyên tắc 30 triệu cổ phiếu của công ty cổ phần Vàng bạc đá quý Phú Nhuận (PNJ); 13,6 triệu cổ phiếu của công ty cổ phần Licogi 16.

Chỉ cận kề ngưỡng điểm thấp nhất kể từ đầu năm được thiết lập trong tháng 6 vừa qua vài điểm ít ỏi, phiên giao dịch sáng nay, chỉ số VN-Index đã tạm thời tạo được khoảng cách an toàn khi đã tăng trở lại.

Có thể nhận thấy thông tin kinh tế vĩ mô trong nước vẫn tiếp tục có những tín hiệu khả quan: chính sách tiền tệ đã nới rộng sau những quyết định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, chỉ số giá tiêu dùng trong tháng 10 tại Tp Hồ Chí Minh đã giảm xuống, ... và đây cũng là tín hiệu lạc quan cho cả nước, giá xăng dầu dù không giảm nhiều như kỳ vọng nhưng cũng là yếu tố được đánh giá hỗ trợ thị trường...

Trong khi đó sau thời gian khá dài đồng hành cùng chứng khoán thế giới, phiên giao dịch sáng nay, chứng khoán Việt Nam cũng được hỗ trợ từ việc thị trường Mỹ tăng điểm mạnh trong phiên giao dịch kết thúc rạng sáng nay giờ VN, trong khi đó lúc này tại trường khu vực Châu Á, sắc xanh vẫn tiếp tục xuất hiện ở nhiều thị trường chủ chốt.

Với những thông tin như vậy, mở cửa phiên giao dịch sáng nay cổ phiếu đã tăng giá chiếm phần lớn trên bảng giao dịch điện tử trước sức cầu tăng lên rõ rệt, VN-Index kết thúc đợt 1 này tăng ngay 8,73 điểm (tương đương tăng 2,35%) lên 379,53 điểm.

Khối lượng trong đợt 1 đã tăng mạnh với hơn 5,5 triệu đơn vị được giao dịch giá trị tương ứng là 155,85 tỷ đồng.

Nửa đầu của đợt khớp lệnh xác định giá đóng cửa thị trường bất ngờ diễn biến chậm lại bởi VN-Index dần đi lùi bởi những cổ phiếu vốn hoá lớn chỉ tăng nhẹ trong đó một số mã xuống giá. Tuy nhiên kết thúc đợt 2, VN-Index vẫn có kết quả khả quan với mức tăng 7,57 điểm (tương đương tăng 2,04%) lên 378,37 điểm.

Những lệnh vội vã cuối cùng trong đợt khớp lệnh xác định giá đóng cửa đã giúp VN-Index chung cuộc tăng khá mạnh 9,14 điểm (tương đương tăng 2,46%) lên 379,94 điểm. Như vậy phiên trước VN-Index “đe doạ” phà đáy thì phiên này đã tạo được khoảng cách tạm thời khá an toàn trước ngưỡng tâm lý khá quan trong này.

Thanh khoản của thị trường được cải thiện rõ trước sức mua đã tăng lên khá nhiều, cụ thể đã có hơn 15,76 triệu đơn vị cổ phiếu và chứng chỉ quỹ được khớp lệnh thành công với giá trị là 464,47 tỷ đồng. Như vậy cả khối lượng và giá trị phiên này đều tăng khoảng 50% so với phiên giao dịch hôm qua.

Trong tổng số 160 mã cổ phiếu và 4 chứng chỉ quỹ niêm yết đã có đến 123 mã tăng giá (trong đó có 43 mã tăng giá kịch trần), 14 mã giữ mức tham chiếu và 27 mã giảm giá (trong đó có 13 mã giảm sàn).

Biến động của VN-Index trong phiên phụ thuộc vào mức tăng giảm của nhóm cổ phiếu có mức vốn hoá lớn, kết quả đợt 3, chỉ số tăng mạnh nhất cũng một phần mã cổ phiếu SSI của Chứng khoán Sài Gòn kịp tăng giá trở lại cùng với đó là VNM của Vinamilk.

Như vậy 10 mã cổ phiếu ảnh hưởng lớn đến thị trường phiên này đều đã tăng giá cho dù một số mã tăng chỉ tăng nhẹ như PPC của Nhiệt điện Phả Lại (+300 đồng lên 25.000 đồng/cp), SSI (+200 đồng lên 35.000 đồng/cp), VNM (+1.500 đồng lên 83.000 đồng/cp), VIC (+2.500 đồng lên 82.000 đồng/cp)...

Có 3 mã tăng giá trần nhóm này là STB của Sacombank (+1.000 đồng lên 22.400 đồng/cp), FPT của CTCP Đầu tư Phát triển Công nghệ FPT (+3.500 đồng lên 78.000 đồng/cp) và PDV của PV Drilling (+3.500 đồng lên 82.000 đồng/cp).

Nhóm cổ phiếu giảm giá có một số mã đáng chý ý như SJS của Sudico, NKD của Kinh Đô miền Bắc, TSC của Vật tư Kỹ thuật NN Cần Thơ, TAC của Dầu Tường An, ANV của Nam Việt, và nhóm cổ phiếu ngành cao su của DRC, HRC, TRC, DPR.

Thị trường sôi động thì các mã cổ phiếu BLue-chips vẫn là các mã được giao dịch nhiều nhất như: STB (2,48 triệu cp), SSI (1,19 triệu cp), DPM (0,89 triệu cp), ITA (0,85 triệu cp), SAM (0,55 triệu cp), HPG (0,44 triệu cp), FPT (0,41 triệu cp)...

Chi tiết giao dịch ngày 21/10:
(Đơn vị giá: 1.000đ; Đơn vị KL: 1 CP)

Mã CK

Giá cao nhất

Giá thấp nhất

Giá đóng cửa

Thay đổi

%Thay đổi

Khối lượng

ABT

31.4

30.4

30.5

0.1

0.33

17,990

ACL

36.9

36

36.7

1.1

3.09

4,230

AGF

21

20.1

21

0.4

1.94

12,000

ALP

11.8

11.4

11.6

0.1

0.87

38,480

ALT

29.5

28.1

29.5

0

0.00

8,430

ANV

27.2

26.1

26.1

-1.3

-4.74

70,040

ASP

12.8

12.3

12.8

0.6

4.92

32,600

BBC

17.3

17

17.3

0.2

1.17

117,270

BBT

7

7

7

0.3

4.48

32,300

BHS

15

14.4

15

0.7

4.90

11,150

BMC

96

93

94

0.5

0.53

54,820

BMI

21.4

19.5

21.4

1

4.90

7,250

BMP

37.6

37

37.6

1.7

4.74

32,350

BPC

12.6

12

12.6

0

0.00

4,010

BT6

56.5

55

56

2

3.70

7,640

BTC

31.5

28.5

31.5

1.5

5.00

310

CAN

12.4

11.8

12.1

0.1

0.83

5,380

CII

27

26.5

26.8

0.6

2.29

58,460

CLC

17.8

17.8

17.8

0.8

4.71

510

CNT

15.1

14

14.5

-0.2

-1.36

42,390

COM

33.6

32.5

33.6

1.6

5.00

5,060

CYC

17.2

17.2

17.2

0.8

4.88

4,730

DCC

12.9

12.9

12.9

0.6

4.88

20,610

DCL

55.5

53.5

53.5

-1.5

-2.73

22,240

DCT

10.9

10.6

10.8

0.1

0.93

34,440

DDM

22.8

20.9

21.8

-0.2

-0.91

143,220

DHA

20.8

20

20.8

0.9

4.52

78,190

DHG

116

114

115

3

2.68

29,220

DIC

19.2

18.3

19.1

0.8

4.37

82,150

DMC

63

59

62

0

0.00

46,670

DNP

11.6

11.5

11.6

0.5

4.50

17,910

DPC

12.7

12.1

12.7

0

0.00

8,200

DPM

52.5

51

52

2

4.00

889,860

DPR

47.2

47

47

-2.4

-4.86

136,550

DQC

21.8

20.9

21

0.1

0.48

56,290

DRC

27.1

25.8

25.8

-1.3

-4.80

41,710

DTT

12.9

12.1

12.1

-0.6

-4.72

1,010

DXP

28.8

27.5

28

0.5

1.82

39,350

DXV

9.7

9.5

9.7

0.4

4.30

21,570

FBT

18

17.4

18

0.1

0.56

128,800

FMC

13.5

13.2

13.5

0.3

2.27

6,900

FPC

20.4

20.4

20.4

-1

-4.67

260

FPT

78

74.5

78

3.5

4.70

413,160

GIL

16.8

16.5

16.5

0.5

3.13

24,950

GMC

16.4

16

16.4

0.7

4.46

5,840

GMD

42

40.2

41.8

0

0.00

121,450

GTA

12

11.4

12

0

0.00

510

HAP

23.9

22.7

23.9

1.1

4.82

107,530

HAS

13.5

13

13.5

0.5

3.85

12,250

HAX

21.9

21.9

21.9

1

4.78

1,110

HBC

18

17.6

17.6

-0.8

-4.35

163,490

HBD

13

12.5

12.9

0.4

3.20

2,310

HDC

23.9

23.1

23.9

1.1

4.82

81,790

HMC

18.4

17.5

18.4

0.4

2.22

95,520

HPG

41.5

40.3

41.5

1.2

2.98

443,500

HRC

33.2

33.2

33.2

-1.7

-4.87

39,790

HSI

17

16.2

16.6

0.1

0.61

15,390

HT1

16

15.5

16

0.5

3.23

43,540

HTV

12

11.8

12

0.5

4.35

41,940

ICF

10

9.7

10

0.3

3.09

23,660

IFS

11

10.3

10.3

-0.4

-3.74

7,810

IMP

86.5

83

83

0.5

0.61

37,070

ITA

30.8

30

30.8

1.4

4.76

853,640

KDC

36.9

36

36.9

1.7

4.83

79,670

KHA

12.7

12.1

12.5

0.3

2.46

21,680

KHP

11.8

11.3

11.6

0.3

2.65

97,160

KMR

9

8.7

9

0.1

1.12

62,360

L10

13.7

13.7

13.7

0.6

4.58

4,600

LAF

16.5

16

16.5

0.5

3.13

48,370

LBM

25.7

25

25.7

1.2

4.90

62,220

LGC

26

25

25

0.2

0.81

61,520

LSS

15.2

15.2

15.2

0.5

3.40

15,530

MAFPF1

4.7

4.4

4.7

0.1

2.17

56,020

MCP

14.3

14

14

0.3

2.19

1,400

MCV

12.7

12.4

12.5

0.1

0.81

27,690

MHC

13.8

13

13.4

0

0.00

48,770

MPC

14.1

13.4

13.6

0.1

0.74

248,400

NAV

14.9

14.5

14.9

0.4

2.76

34,920

NHC

44.3

44.3

44.3

2.1

4.98

10,760

NKD

33.5

32.5

33.5

-0.7

-2.05

85,730

NSC

30

29

30

1

3.45

60,140

NTL

43

39.5

43

1.5

3.61

42,250

PAC

43.9

43.9

43.9

1

2.33

13,210

PET

19.9

19.4

19.8

0.8

4.21

84,620

PGC

12.7

12.1

12.6

0.5

4.13

23,680

PIT

17

16.6

17

0.4

2.41

38,970

PJT

14.5

14

14.4

0.4

2.86

11,810

PMS

19

17.2

19

0.9

4.97

6,020

PNC

11.2

10.7

10.7

0

0.00

330

PPC

25.4

23.8

25

0.3

1.21

264,380

PRUBF1

4.5

4.4

4.5

0.1

2.27

83,530

PVD

82

81

82

3.5

4.46

159,230

PVT

21

20.1

21

1

5.00

258,490

RAL

33.8

33.5

33.8

0

0.00

20,920

REE

28

27

28

1.3

4.87

287,930

RHC

20.5

19

19.2

-0.8

-4.00

27,270

RIC

17.5

16

17

0.3

1.80

9,500

SAF

23.2

22.1

23.2

1.1

4.98

2,950

SAM

18.4

17.8

18.4

0.3

1.66

549,150

SAV

13.3

12.9

12.9

-0.3

-2.27

2,700

SBT

10.5

10

10.3

0.1

0.98

132,460

SC5

31

29.5

31

1.4

4.73

78,240

SCD

18.1

18

18.1

0.8

4.62

2,160

SDN

22.3

20.9

20.9

-1.1

-5.00

660

SFC

39.4

39.4

39.4

1.4

3.68

150

SFI

48.3

47.2

48.3

2.3

5.00

53,350

SFN

12.4

11.5

12.4

0.3

2.48

4,570

SGC

15

14

14.3

0

0.00

15,820

SGH

84

84

84

-4

-4.55

570

SGT

27.8

26.1

27.5

0.5

1.85

8,010

SHC

37

36.9

36.9

-1.9

-4.90

47,670

SJ1

17.3

16.5

16.6

0.1

0.61

7,590

SJD

16

15.5

15.7

0.3

1.95

42,660

SJS

61

58

59

-2

-3.28

219,550

SMC

27

26.4

26.5

0

0.00

37,780

SSC

23.9

23.7

23.9

1.1

4.82

16,530

SSI

35

33.1

35

0.2

0.57

1,193,010

ST8

33.9

33

33.1

0.6

1.85

9,140

STB

22.4

21.7

22.4

1

4.67

2,482,370

SZL

61.5

59

61.5

2.5

4.24

41,040

TAC

33.6

33.6

33.6

-1.7

-4.82

195,910

TCM

11

10.6

10.9

0.4

3.81

54,090

TCR

11.4

11

11.3

0.3

2.73

6,100

TCT

97.5

90.5

95.5

2.5

2.69

7,370

TDH

28

26.3

28

0.5

1.82

215,110

TMC

30.8

29

29.3

-1.1

-3.62

11,870

TMS

40.8

39.5

39.5

0

0.00

740

TNA

20.4

19.7

20.4

0.7

3.55

9,370

TNC

12

11.4

11.6

-0.2

-1.69

57,910

TPC

8.5

8.2

8.4

0.1

1.20

46,780

TRC

39.3

39.3

39.3

-2

-4.84

156,160

TRI

14

13

13.2

-0.4

-2.94

22,790

TS4

11.8

11.7

11.7

-0.6

-4.88

66,840

TSC

62

59.5

61

-1.5

-2.40

78,010

TTC

10.9

10.2

10.8

0.2

1.89

25,490

TTF

21.9

20.2

21

-0.1

-0.47

22,120

TTP

20.6

19.8

20.6

0.9

4.57

88,380

TYA

16.2

15.6

16.2

0.7

4.52

132,640

UIC

12

11.6

12

0.5

4.35

15,030

UNI

15.7

15.1

15.7

0.7

4.67

14,170

VFC

10.8

10.5

10.6

0.1

0.95

14,170

VFMVF1

10

9.7

10

0.4

4.17

284,510

VFMVF4

5.8

5.6

5.7

0.1

1.79

390,630

VGP

25.9

25

25.5

0.5

2.00

7,480

VHC

25.8

24

25

0

0.00

2,740

VHG

10.8

10.3

10.8

0.5

4.85

31,400

VIC

82

81

82

2.5

3.14

82,250

VID

10.8

10.5

10.6

0.1

0.95

56,870

VIP

15.4

14.9

15.3

0.5

3.38

180,910

VIS

26.8

25.5

26

0.4

1.56

258,660

VKP

9.9

9.5

9.7

0.2

2.11

37,300

VNA

29.2

27.9

28.5

0.5

1.79

48,730

VNE

9.5

9.2

9.5

0.4

4.40

173,000

VNM

83

80

83

1.5

1.84

85,780

VNS

23.7

22.6

23.7

1.1

4.87

56,220

VPK

10.3

10.2

10.2

0.2

2.00

1,950

VPL

96.5

95

96.5

1.5

1.58

81,100

VSC

72

70

71.5

1.5

2.14

21,560

VSG

15.2

14.6

15.2

0.6

4.11

11,310

VSH

28.7

28

28.3

0.4

1.43

154,950

VTA

9.7

9.3

9.6

0.3

3.23

1,790

VTB

16.2

15.4

16.2

0

0.00

6,480

VTC

13

12.1

12.1

-0.6

-4.72

8,050

VTO

15.8

15.5

15.7

0.3

1.95

319,780



ATPVietnam