Vì sao chi cổ tức lại điều chỉnh giảm giá cổ phiếu?

Wednesday, October 1, 2008 |

Theo quy định của Luật Doanh nghiệp, cổ đông chỉ được nhận cổ tức khi công ty kinh doanh có lãi, đã hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế và các nghĩa vụ tài chính khác. Thông thường, NĐT khi mua CP đều kỳ vọng vào hai điều: hưởng cổ tức và tăng giá CP.

Theo tâm lý chung, nếu giá CP không được điều chỉnh giảm sau khi chia cổ tức thì gần ngày chia cổ tức, người đang giữ CP sẽ không muốn bán CP (vì NĐT mong đợi được nhận cổ tức); và ngay sau khi được chia cổ tức, NĐT đều muốn bán CP. Chính điều này sẽ làm phát sinh trường hợp: nhu cầu mua CP trước ngày hưởng cổ tức và nhu cầu bán CP sau ngày hưởng cổ tức sẽ tăng. Để cân bằng thị trường thì giá CP phải được điều chỉnh giảm ngay sau khi chia cổ tức. Ngoài ra, nếu NĐT quyết định mua CP sau ngày được chia cổ tức thì luôn mong muốn được mua với giá thấp hơn giá trước khi chia cổ tức (vì NĐT này đến năm sau mới được chia cổ tức). Do vậy, để đảm bảo nguyên tắc công bằng thì giá CP phải được điều chỉnh giảm và tỷ lệ điều chỉnh giảm đúng bằng tỷ lệ được nhận cổ tức. Nguyên tắc công bằng này được ghi nhận tại Điều 4 Luật Chứng khoán.

Hơn nữa, nếu chia cổ tức bằng CP thì làm tăng lượng CP đang lưu hành. Khi xảy ra trường hợp này, giá CP đương nhiên phải được điều chỉnh giảm. Vì cùng một lượng lợi tức, nhưng được chia cho nhiều CP hơn thì giá trị của mỗi CP sẽ giảm.

Do vậy, NĐT cần hiểu bản chất các nghiệp vụ này để có những đánh giá chính xác về giá trị NĐT cũng như xác định được quyền lợi của mình.


(ảnh Hữu Nghị).

Mở cửa thị trường vàng trong nước sáng nay, vàng SJC niêm yết ở mức giá: 1,782 triệu đồng/chỉ (mua vào) - 1,797 triệu đồng/chỉ (bán ra), giảm hơn 20.000 đồng/chỉ so với sáng qua.

Trên thị trường tự do, vàng Bảo Tín Minh Châu có giá 1,77 triệu đồng/chỉ - 1,79 triệu đồng/chỉ, giảm gần 30.000 đồng/chỉ.

Còn tại sàn vàng ACB, giá vàng SJC khớp ở mức 1,793 triệu đồng/chỉ; tính đến hơn 9h toàn sàn có 64.300 lượng vàng chuyển nhượng thành công, tương ứng giá trị đạt 1.151 tỷ đồng.

Như vậy, giá vàng đã không đạt mức 1,835 triệu đồng/chỉ như dự đoán của một số chuyên gia trong nước. Nguyên nhân là do giá vàng thế giới đã giảm mạnh, sau khi “vọt” lên mức trên 900 USD.

Kết thúc phiên giao dịch hôm qua, giá vàng giao vào tháng 12 tại New York giảm 13,6 USD/ounce (tương đương 1,5%), xuống 880,8 USD/ounce; giá vàng giao ngay giảm tới 33,5 USD/ounce, xuống 870 USD/ounce.

Hôm qua, USD tăng giá mạnh so với đồng Euro, sau khi có thông tin Chính phủ Pháp và Bỉ phải tiến hành cứu ngân hàng Dexia, ngân hàng cho vay lớn nhất thế giới.

Tuy nhiên, nếu tính chung cho tháng 9, giá vàng tăng 5,5% bởi chính sách thắt chặt tín dụng lan rộng và so với một năm trước, giá vàng tăng 1,7%.

Thị trường tiếp tục đi xuống

|


Chứng khoán giảm vẫn do tâm lý (ảnh: Hữu Nghị).

Trước giờ mở cửa giao dịch, nhà đầu tư trong nước đón nhận thông tin khả quan từ thị trường Mỹ và các thị trường chủ chốt trên toàn cầu. Một thông tin khác đến với nhà đầu tư là Petrolimex hôm qua đã có thông báo giảm giá dầu hoả 1.000 đồng/lít từ 1/10.

Kết thúc đợt 1, Vn-Index đảo chiều tăng 6,56 điểm, khối lượng giao dịch tăng mạnh với hơn 6,1 triệu đơn vị. Vn-Index vẫn tiếp tục duy trì mức tăng khi bước sang đợt khớp lệnh liên tục nhưng trước tâm lý đắn đo của NĐT về diễn biến bất ngờ của thị trường, Vn-Index dần để mất số điểm có được trong đợt 1 và về gần cuối đợt 2, một lần nữa chỉ số này lại hồi phục và chỉ giảm nhẹ 2,38 điểm.

Chốt phiên, chỉ số này giảm nhẹ 2,29 điểm (tương đương giảm 0,5%) đóng cửa ở mức 454,41 điểm với giao dịch tăng vọt so với phiên hôm qua khi đạt hơn 19,830 triệu đơn vị với giá trị tương ứng là 712,070 tỷ đồng.

Toàn thị trường đã có 75 mã tăng giá (trong đó có 18 mã tăng trần) đã có 71 mã giảm giá (trong đó có 13 mã giảm sàn) còn lại là 18 mã giữ mức giá tham chiếu.

Nhóm 10 cổ phiếu có mức vốn hoá lớn trên sàn phiên này cũng đã hồi phục, có 4 mã tăng giá là VNM, STB, VIC và FPT trong đó VNM của Vinamilk có mức tăng trần mạnh nhất, tăng 4.500 đồng lên 95.000 đồng/CP.

Các mã nhóm giảm giá phiên này là PPC, VPL, PVD, SSI, HPG và DPM.

Về giao dịch, STB dẫn đầu với khối lượng giao dịch áp đảo 3,1 triệu cổ phiếu được chuyển nhượng thành công, tiếp theo là HPG 1,51 triệu cổ phiếu, SSI 1,09 triệu cổ phiếu, các mã tiếp theo có giao dịch dưới 1 triệu đơn vị.

Trái ngược với các diễn biến trên sàn HoSe, đóng cửa phiên giao dịch sáng nay Hastc-Index tăng nhẹ 1,15 điểm lên 149,7 điểm mặc dù đã có lúc giảm nhẹ vào giữa phiên.

Giao dịch tăng mạnh so với phiên giao dịch hôm qua khiến các nhà đầu tư phần nào an tâm vào thị trường với hơn 11 triệu cổ phiếu, gấp gần 6 lần so với lượng khớp lệnh hôm qua, giá trị giao dịch khớp lệnh đạt 373,26 tỷ đồng.

Các cổ phiếu tăng mạnh nhất sàn phiên này là DTC, MIC, CCM, CDC và DAC trong đó CCM và CDC tăng trần với mức tăng lần lượt là 2.600 đồng và 2.300 đồng/CP. Các cổ phiếu giảm giá mạnh nhất sàn là YSC, RCL, KKC…

Về lượng giao dịch khớp lệnh, KLS đứng đầu toàn thị trường với gần 1,6 triệu cổ phiếu, tuy nhiên cổ phiếu này bình quân giảm 800 đồng xuống 20.800 đồng/CP.

Các cổ phiếu có lượng khớp lệnh lớn tiếp theo là ACB (980.000 cổ phiếu), PVS (689.000 cổ phiếu), VCG và TBC đều giao dịch gần 530.000 cổ phiếu. Ngoài VCG giảm nhẹ 400 đồng, 3 cổ phiếu còn lại là ACB, PVS và TBC đều tăng nhẹ từ 600 - 1.000 đồng/CP.

Giới đầu tư Mỹ lại lạc quan

|


Các chỉ số chính tại phố Wall đều bật mạnh trở lại với biên độ trên dưới 5% trong phiên giao dịch 30/9, khi giới đầu tư kỳ vọng kế hoạch 700 tỷ USD sẽ được thông qua trong phiên họp tiếp theo của Hạ viện Mỹ.

Sau thảm cảnh 29/9 khiến thị trường bốc hơi 1.200 tỷ USD, Dow Jones Index tăng 485,21 điểm, tương đương 4,68%, và chốt ở mức 10.850,66 điểm. Phiên trước, chỉ số này giảm gần 7%. Hai chỉ số khác là Standard & Poor's 500 và Nasdaq lần lượt đạt mức tăng 5,27% và 4,97% sau khi giảm 8,79% và 9,14% hôm thứ hai.

Russell 2000 Index, chỉ số chứng khoán của nhóm doanh nghiệp nhỏ tăng 21,86 điểm, tương đương 3,32% lên 679,58 điểm.

Trên toàn sàn New York, cứ 2 cổ phiếu tăng giá mới có 1 mã giảm. Tổng khối lượng giao dịch đạt 5,84 tỷ cổ phiếu.

Các loại giấy tờ có giá do Bộ Tài chính phát hành cũng tăng nhẹ, cho thấy rõ niềm tin đang dần trở lại với giới đầu tư.

Niềm tin của giới đầu tư vẫn khá mong manh, bởi gói giải pháp 700 tỷ USD chưa giải quyết tận gốc các vấn đề trên thị trường tín dụng Mỹ. Ảnh: AP
Các nhà đầu tư tại sàn New York hôm 30/9. Niềm tin vẫn khá mong manh, bởi gói giải pháp 700 tỷ USD nếu được thông qua cũng khó giải quyết tận gốc các vấn đề trên thị trường tín dụng Mỹ. Ảnh: AP

Mối quan tâm hàng đầu của dân chơi chứng khoán lúc này là cuộc họp ngày mai của Quốc hội Mỹ, tại đó gói giải pháp trị giá 700 tỷ USD một lần nữa được đem ra biểu quyết.

Phục hồi của Wall Street hôm qua quả là ấn tượng, biên độ 4,68% của Dow Jones là mức tăng cao nhất của chỉ số này trong vòng 6 năm qua và cao thứ ba trong lịch sử. Song diễn biến này đã được lường trước, khi mà cổ phiếu xuống mức rẻ như cho, người ta sẽ đổ xô quay trở lại thu gom. Cộng hưởng với đó là niềm tin nhen nhóm vào kế hoạch giải cứu thị trường của Nhà Trắng. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là niềm tin của giới đầu tư sẽ duy trì trong bao lâu.

Các giao dịch viên sàn chứng khoán New York vẫn chưa nguôi ngoai nỗi đau Dow Jones mất tới 778 điểm hôm thứ hai. Họ cho rằng Nhà Trắng cần đưa ra một kế hoạch có thể quét sạch nỗi lo về thị trường tín dụng hiện nay, chứ không đơn thuần là việc tung 700 tỷ USD mua các khoản nợ xấu.

"Tôi chẳng nghĩ là giới đầu tư sẽ nhảy cẫng lên khi kế hoạch được thông qua, trừ phi người ta đưa ra được những giải pháp hữu hiệu để thực thi kế hoạch đó. Nếu trong phiên làm việc của Quốc hội có một lá phiếu chống, chắc chắn thị trường chứng khoán khó mà đi lên vững vàng. Thậm chí máu sẽ lại âm thầm chảy", James Maguire, một giao dịch viên tại sàn New York ví von.

Tại khu vực châu Âu, các chỉ số chính cùng tăng điểm trở lại. FTSE 100 của Anh tăng 1,74%. DAX của Đức tăng 0,41% và CAC-40 của Pháp tăng 1,99%.

Chứng khoán châu Á giao dịch sớm hơn New York nên vẫn hứng chịu dư âm từ phiên 29/9. Chỉ số Nikkei của Nhật Bản, nơi có mối liên quan chặt chẽ với thị trường Mỹ, giảm 4,12%. Riêng Hang Seng Index của Hong Kong tăng nhẹ 0,76%.

VNExpress

Vn-Index lùi về 450 điểm

|


Thị trường chứng khoán hôm nay chứng kiến cuộc đấu quyết liệt giữa bên mua và bên bán, Vn-Index liên tục trồi lên sụt xuống. Tuy nhiên, sức cầu chưa đủ mạnh giúp chỉ số này đảo chiều, mà rơi nhẹ 2,29 điểm (0,5%), chốt ở 454,41.

Trái với động thái xả hàng ào ạt khiến dư bán tràn ngập bảng điện tử phiên hôm qua, chứng khoán sàn TP HCM ngay từ lúc bắt đầu đợt giao dịch đầu tiên đã xuất hiện nhiều mã tăng điểm. Trong số đó, có những mã có giá trị vốn hóa lớn như STB, FPT, VNM, đã phần nào trấn an tâm lý nhà đầu tư, ít nhất là đà giảm sẽ hãm lại và không phải chỉ độc màu đỏ trên hàn thử biểu như diễn biến khá đặc biệt phiên hôm qua.

Cùng với các blue-chip, nhiều mã vừa và nhỏ khác cũng lội ngược dòng gia nhập cuộc đua tăng giá. Sự đồng thuận đi lên của nhiều mã chứng khoán đã thúc Vn-Index tiến lên 6,67 điểm. Đáng chú ý, thanh khoản thị trường tuy còn ở mức thấp nhưng so với đợt 1 hôm qua đã cải thiện gần gấp 5 lần, với 6,1 triệu cổ phiếu giao dịch, đạt giá trị 214,9 tỷ đồng.

Vn-Index trải qua phiên giảm thứ 3 liên tiếp, tổng cộng có 29,4 điểm mất đi. Ảnh: Đ.Q.

Tuy nhiên, sự thận trọng của nhà đầu tư vẫn còn đó khi sức mua tuy đã tăng cường hơn hôm qua nhưng chưa đủ táo bạo để gom hết lượng cung tràn đầy. Giao dịch trong đợt khớp lệnh liên tục biểu hiện rõ điều này.

Vn-Index nhả dần từng điểm một và bị đe dọa rớt xuống mức điểm âm khi đến giữa đợt 2, lượng cầu trở nên suy yếu. Thị trường chứng kiến phiên bán tháo mạnh trong khi bên mua tỏ ra cảnh giác và thu vào nhỏ giọt kéo giá nhiều mã chứng khoán quay đầu giảm điểm sau khoảng thời gian hồi phục ngắn ngủi.

Vn-Index mất đi 2,38 điểm sau đợt 2. Dù giảm nhưng khối lượng và giá trị giao dịch tăng mạnh so với cùng đợt hôm qua, với 17,6 triệu chứng khoán chuyển nhượng, tương ứng 649,845 tỷ đồng. .

Nếu hôm qua, tính thanh khoản bị bóp nghẹt bởi không có người mua thì phiên sáng nay, cả khối lượng và giá trị giao dịch phục hồi trở lại, có đến 19,8 triệu chứng khoán giao dịch (tính cả thỏa thuận và khớp lệnh), trị giá 712 tỷ đồng.

Cuộc khủng hoản tài chính tín dụng Mỹ đã tác động đến tâm lý nhà đầu tư. Mặc dù, hôm qua Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Giàu đã khẳng định cuộc khủng hoảng tín dụng trên thế giới vẫn chưa tác động tới ngân hàng trong nước, dự trữ ngoại hối của Việt Nam vẫn ở trạng thái tích cực. Hôm nay, dầu hỏa giảm 1.000 đồng một lít. Bất chấp những thông tin lạc quan trên, chứng khoán hai sàn tiếp tục đi xuống.

Phòng phân tích công ty chứng khoán Bảo Việt nhận định, thị trường đang có những phản ứng tiêu cực do ảnh hưởng của thị trường thế giới, nhưng chỉ mang tính tức thời. Còn hiện tại, chưa có những tín hiệu rõ ràng để xác định xu thế trong ngắn hạn. Nếu tiếp tục giảm điểm, Vn-Index sẽ thử thách ngưỡng hỗ trợ 430.

Kết phiên có 74 cổ phiếu tăng, 20 mã đứng và 70 mã đi xuống. VNM hôm nay có thêm 4.500 đồng một cổ phiếu - mức tăng cao nhất của phiên, DHG nhích thêm 3.000 đồng. Tiếp tục dẫn đầu thị trường về khối lượng giao dịch vẫn là những blue-chip như STB (3.109.650 cổ phiếu), HPG (1.519.000 cổ phiếu), SSI (1.097.390 cổ phiếu).

Trên sàn Hà Nội, HaSTC-Index không cùng nhịp với Vn-Index mà quay đầu tăng nhẹ 1,15 điểm (0,77%), chốt ở 149,7 điểm. Khối lượng giao dịch toàn thị trường đạt 11,4 triệu chứng khoán, tương ứng 390,4 tỷ đồng.



Sở GDCK Tp.HCM thông báo, ngày 14/10/2008 là ngày đăng ký cuối cùng chốt danh sách cổ đông của Tổng Công ty Phân bón và Hóa chất Dầu khí – Công ty cổ phần (Mã CK: DPM).

Ngày giao dịch không hưởng quyền là 10/10/2008.

Mục đích Công ty sử dụng danh sách cổ đông để tạm ứng cổ tức đợt 1 năm 2008 bằng tiền với tỷ lệ chi trả là 1.000 đồng/cổ phiếu (10%/mệnh giá). Ngày chi trả cổ tức là 10/11/2008.

Cổ đông đã lưu ký nhận cổ tức tại công ty CK nơi mình mở tài khoản. Cổ đông chưa lưu ký nhận cổ tức tại Ban Tài chính Kế toán & Kiểm toán – Tổng công ty.

Đồng thời, Công ty cũng lấy ý cổ đông bằng văn bản thông qua đại hội đồng cổ đông về việc điều chỉnh kế hoạch phân phối lợi nhuận sau thuế năm 2008 của Tổng công ty. Thời gian tiến hành từ ngày 22/10/2008 đến 6/11/2008.

Trung tâm Lưu ký Chứng khoán Chi nhánh tại Tp.HCM tạm ngừng nhận lưu ký chứng khoán DPM vào những ngày 13,14,15/10/2008.

Theo báo cáo kết quả kinh doanh, trong quý II/2008 Tổng Công ty đã đạt được 2.072,390 tỷ đồng doanh thu thuần bán hàng và cung cấp dịch vụ, tăng 113,47% so với quý I/2008 (tương đương tăng 1.101,576 tỷ đồng). Lũy kế 6 tháng đầu năm đạt 3.043,204 tỷ đồng, hoàn thành 64,01% kế hoạch năm 2008.

Lợi nhuận trước thuế quý II đạt 768,006 tỷ đồng, tăng 81,85% so với quý I/2008 (tương đương tăng 345,666 tỷ đồng). Lũy kế 6 tháng đầu năm đạt 1.190,345 tỷ đồng, hoàn thành 77,3% kế hoạch năm 2008.

Lãi cơ bản trên cổ phiếu 6 tháng đầu năm đạt 2.903 đồng.

Kết thúc phiên giao dịch ngày 1/10/2008, cổ phiếu DPM giảm 2.000 đồng (3,33%) ở mức 58.000 đồng/ cổ phiếu với 776.070 cổ phiếu được giao dịch.

Ngày

Giá

Thay đổi

% thay đổi

Khối lượng

01/10/2008

58.000

-2.000

-3,33

776.070

30/09/2008

60.000

-3.000

-4,76

22.050

29/09/2008

63.000

2.500

4,13

1.531.940

26/09/2008

60.500

1.000

1,68

1.068.290

25/09/2008

59.500

2.500

4,39

910.350



Sau khi để mất điểm mạnh trong phiên giao dịch liền trước với kịch bản bên bán xả hàng ồ ạt trong khi bên mua dè dặt yếu ớt, kết thúc phiên giao dịch sáng 1/10 cũng là phiên giao dịch đầu tiên của tháng 10, chỉ số HaSTC-Index quay đầu tăng điểm nhẹ sau 2 phiên giảm liên tiếp. Cán cân cung – cầu của thị trường đã trở nên cân bằng hơn.

Diễn biến phiên giao dịch sáng 1/10 diễn ra trong thế giằng co khá quyết liệt. Tuy nhiên, về cuối phiên với sức cầu được duy trì đứng ở mức cao cũng như sự nỗ lực ghi điểm của một vài cổ phiếu chủ chốt đã giúp HaSTC-Index bảo vệ được thành quả của mình. Tính thanh khoản cũng được cải thiện rõ nét.

Chốt phiên giao dịch sáng 1/10, chỉ số HaSTC-Index đảo chiều tăng nhẹ 1,15 điểm (tương đương tăng 0,77%) lên mức 149,7 điểm.

Tổng khối lượng giao dịch toàn thị trường tăng mạnh so với phiên liền trước đạt 11,4 triệu cổ phiếu, tương đương giá trị đạt 390,65 tỷ đồng (so với 6,4 triệu cổ phiếu, giá trị 264,44 tỷ đồng phiên trước đó).

Theo thống kê, toàn thị trường ghi nhận 66 mã tăng giá, 2 mã không có giao dịch, 5 mã đứng giá giá chiếu, còn lại 80 giảm giá. Về cuối phiên, có 22 đóng cửa ở mức giá trần và 18 mã đóng cửa ở mức giá sàn.

Khá nhiều cổ phiếu chủ chốt quay đầu tăng điểm nhẹ trở lại như đại gia ACB tăng 700 đồng đạt 51.700 đồng, KBC tăng 1.700 đồng đạt 80.200 đồng, PVS tăng 1.000 đồng đạt 51.500 đồng, NTP tăng 400 đồng đạt 59.500 đồng, VNR tăng 400 đồng đạt 39.000 đồng… Tuy nhiên, một vài tên tuổi khác vẫn tiếp tục để mất như PVI, BVS, KLS, VCG, BTS…

Trong 66 mã tăng giá, DTC là cổ phiếu tăng giá mạnh nhất thị trường khi tăng 6.800 đồng đạt 116.400 đồng. Tiếp theo, MIC tăng 2.700 đồng đạt 65.700 đồng, CCM tăng 2.600 đồng đạt 40.400 đồng, CDC tăng 2.300 đồng, DAC tăng 2.200 đồng, TC6 và STL cùng tăng 2.100 đồng…

Ở chiều ngược lại, trong 80 mã giảm giá, YSC là cổ phiếu giảm giá mạnh nhất thị trường khi giảm 3.400 đồng còn 46.200 đồng. Kế đến, RCL giảm 3.100 đồng còn 50.900 đồng, KKC giảm 2.400 đồng còn 54.300 đồng, SDJ giảm 1.700 đồng còn 22.800 đồng, SGD giảm 1.600 đồng, PJC giảm 1.500 đồng…

Về khối lượng giao dịch, KLS là cổ phiếu có tính thanh khoản lớn nhất thị trường khi tổng khối lượng giao dịch đạt hơn 1,5 triệu cổ phiếu. Tiếp theo, ACB đạt hơn 980.000 cổ phiếu, PVS đạt hơn 680.000 cổ phiếu, VCG đạt gần 530.000 cổ phiếu, TBC đạt hơn 520.000 cổ phiếu, NTP đạt hơn 320.000, PVI đạt hơn 300.000 cổ phiếu.

Tổng khối lượng và giá trị của nhà đầu tư nước ngoài sụt giảm mạnh so với phiên liền trước đạt 462.100 cổ phiếu, giá trị đạt 15 tỷ đồng. Phiên này, khối nhà đầu tư nước ngoài bán ra nhiều hơn so với mua vào.

Cụ thể, khối này mua vào 23 mã với tổng khối lượng đạt 146.300 cổ phiếu, tương đương giá trị đạt 5,3 tỷ đồng và họ bán ra 18 mã với tổng khối lượng đạt 315.800 cổ phiếu, giá trị đạt 9,7 tỷ đồng.

Những cổ phiếu được khối nhà đầu tư nước ngoài mua vào nhiều nhất gồm STL (34.400 cổ phiếu); VCG (28.000 cổ phiếu); HPC (20.000 cổ phiếu); PVI (13.100 cổ phiếu)…Những cổ phiếu được họ bán ra nhiều nhất gồm BCC (100.500 cổ phiếu); HPC (60.900 cổ phiếu); PVS (41.200 cổ phiếu); PVS (35.900 cổ phiếu)…

Chi tiết giao dịch sáng 1/10:

Mã CK

Giá tham chiếu

Giá cao nhất

Giá thấp nhất

Thay đổi

% thay đổi

Giá bình quân

Khối lượng

Giá trị

ACB

51.0

54.0

50.0

0.7

1.37

51.7

984,700

50,897,910,000

B82

15.2

15.2

15.0

-0.1

-0.66

15.1

2,400

36,340,000

BBS

12.3

12.9

11.5

0.2

1.63

12.5

13,800

172,320,000

BCC

15.2

16.2

14.2

0.1

0.66

15.3

230,000

3,509,820,000

BHV

37.2

39.5

34.6

-0.5

-1.34

36.7

3,400

124,900,000

BLF

14.2

14.7

13.5

-0.2

-1.41

14.0

140,200

1,962,250,000

BTH

12.5

11.7

11.7

-0.8

-6.40

11.7

100

1,170,000

BTS

14.6

15.4

13.6

-0.4

-2.74

14.2

10,200

144,720,000

BVS

48.5

51.0

46.1

-0.5

-1.03

48.0

150,100

7,209,240,000

C92

18.6

19.7

17.3

-0.3

-1.61

18.3

2,700

49,510,000

CAP

18.6

17.6

17.3

-1.2

-6.45

17.4

5,300

92,310,000

CCM

37.8

40.4

40.4

2.6

6.88

40.4

100

4,040,000

CDC

33.0

35.3

34.5

2.3

6.97

35.3

78,300

2,762,520,000

CIC

14.2

13.7

13.3

-0.8

-5.63

13.4

13,000

174,020,000

CID

14.3

15.3

13.3

-0.9

-6.29

13.4

3,200

42,810,000

CJC

22.1

21.0

20.6

-1.4

-6.33

20.7

4,000

82,900,000

CMC

18.8

19.0

17.5

-0.6

-3.19

18.2

46,500

844,210,000

CSG

13.3

14.0

12.4

-0.1

-0.75

13.2

160,700

2,124,800,000

CTB

17.5

16.5

16.3

-1.2

-6.86

16.3

1,400

22,840,000

CTC

14.8

15.5

14.8

0.5

3.38

15.3

2,600

39,670,000

CTN

13.9

14.2

13.7

0.1

0.72

14.0

12,000

168,010,000

DAC

57.2

61.2

57.0

2.2

3.85

59.4

11,800

700,900,000

DAE

18.1

19.2

17.0

-0.5

-2.76

17.6

17,400

305,790,000

DBC

31.1

33.2

30.0

0.4

1.29

31.5

277,600

8,738,630,000

DCS

10.1

10.2

9.6

-0.1

-0.99

10.0

21,000

210,950,000

DHI

16.7

17.8

15.6

-0.1

-0.60

16.6

3,100

51,450,000

DST

12.6

12.8

12.1

-0.3

-2.38

12.3

11,200

137,480,000

DTC

109.6

117.2

111.0

6.8

6.20

116.4

4,700

547,100,000

EBS

21.6

22.8

20.2

-0.5

-2.31

21.1

93,900

1,980,260,000

GHA

30.7

31.0

30.0

-0.3

-0.98

30.4

6,900

210,050,000

HAI

27.6

29.0

25.7

0.1

0.36

27.7

6,900

191,040,000

HBE

15.2

16.1

14.2

-0.4

-2.63

14.8

300

4,450,000

HCC

19.0

17.8

17.7

-1.3

-6.84

17.7

7,300

129,460,000

HCT

25.6

25.6

23.9

-1.3

-5.08

24.3

10,000

243,420,000

HEV

17.7

18.9

17.0

1.0

5.65

18.7

800

14,930,000

HHC

19.6

19.5

19.0

-0.2

-1.02

19.4

4,100

79,500,000

HJS

12.2

13.0

11.4

0.5

4.10

12.7

23,900

303,820,000

HLY

66.0

66.0

64.0

-0.7

-1.06

65.3

2,400

156,600,000

HNM

12.4

13.2

11.7

0.6

4.84

13.0

143,700

1,866,830,000

HPC

26.6

28.3

25.0

-0.6

-2.26

26.0

277,900

7,236,170,000

HPS

15.3

14.3

14.3

-1.0

-6.54

14.3

1,000

14,300,000

HSC

182.8

--

--

0.0

0.00

--

--

--

HTP

13.9

14.0

13.1

0.0

0.00

13.9

16,800

233,590,000

HUT

12.3

13.1

11.5

0.1

0.81

12.4

12,500

155,130,000

ILC

23.4

24.1

21.8

-0.4

-1.71

23.0

37,100

854,540,000

KBC

78.5

83.0

73.2

1.7

2.17

80.2

61,300

4,915,060,000

KKC

56.7

59.0

52.8

-2.4

-4.23

54.3

101,900

5,533,560,000

KLS

21.6

22.5

20.1

-0.8

-3.70

20.8

1,586,400

32,949,840,000

KMF

10.3

10.5

10.0

-0.3

-2.91

10.0

8,000

80,100,000

L18

14.0

14.9

13.7

0.1

0.71

14.1

8,200

115,570,000

L43

19.3

18.1

18.0

-1.3

-6.74

18.0

23,200

417,800,000

L62

26.4

28.2

28.0

1.8

6.82

28.2

36,400

1,026,240,000

LBE

16.8

17.0

17.0

0.2

1.19

17.0

100

1,700,000

LTC

13.3

12.8

12.6

-0.6

-4.51

12.7

2,200

28,030,000

LUT

11.5

12.0

11.5

0.1

0.87

11.6

5,600

65,220,000

MCO

11.9

11.9

11.1

-0.3

-2.52

11.6

2,000

23,210,000

MEC

23.3

23.5

22.5

-0.2

-0.86

23.1

30,900

712,460,000

MIC

63.0

67.4

63.5

2.7

4.29

65.7

5,500

361,330,000

MMC

42.7

45.6

39.8

0.8

1.87

43.5

13,600

591,100,000

NBC

50.3

52.0

47.1

0.0

0.00

50.3

40,100

2,018,550,000

NGC

21.1

22.5

22.3

1.2

5.69

22.3

900

20,110,000

NLC

16.1

17.2

16.2

1.0

6.21

17.1

67,700

1,160,080,000

NPS

34.9

35.9

32.5

-0.5

-1.43

34.4

700

24,110,000

NST

14.0

14.2

14.0

0.1

0.71

14.1

1,800

25,360,000

NTP

59.1

63.0

56.0

0.4

0.68

59.5

322,300

19,185,660,000

NVC

45.0

48.1

44.0

1.5

3.33

46.5

291,200

13,535,080,000

ONE

17.3

17.9

16.1

0.1

0.58

17.4

2,800

48,580,000

PAN

41.2

43.9

38.9

-0.6

-1.46

40.6

242,700

9,847,000,000

PGS

14.7

15.5

14.0

0.1

0.68

14.8

26,100

385,530,000

PJC

22.0

20.5

20.5

-1.5

-6.82

20.5

200

4,100,000

PLC

26.6

27.0

25.5

-0.2

-0.75

26.4

9,000

237,300,000

POT

11.7

12.3

11.5

0.2

1.71

11.9

47,600

567,970,000

PPG

11.0

11.7

11.0

0.5

4.55

11.5

16,800

193,220,000

PSC

23.8

25.4

22.3

0.3

1.26

24.1

400

9,650,000

PTC

12.2

13.0

12.6

0.7

5.74

12.9

24,500

316,180,000

PTS

24.1

25.2

22.5

-0.2

-0.83

23.9

12,800

305,640,000

PVC

35.5

37.9

35.5

1.6

4.51

37.1

93,100

3,455,810,000

PVE

28.0

29.9

28.0

0.3

1.07

28.3

2,500

70,860,000

PVI

38.4

39.9

36.3

-0.1

-0.26

38.3

306,500

11,739,250,000

PVS

50.5

54.0

48.5

1.0

1.98

51.5

689,300

35,516,040,000

QNC

33.8

35.6

32.0

-0.1

-0.30

33.7

114,500

3,853,990,000

RCL

54.0

57.7

50.3

-3.1

-5.74

50.9

26,200

1,332,790,000

S12

17.7

18.3

16.8

-0.3

-1.69

17.4

9,900

172,710,000

S55

26.3

26.3

24.7

-0.8

-3.04

25.5

24,400

621,700,000

S64

21.3

22.0

20.0

-0.5

-2.35

20.8

11,900

246,940,000

S91

17.5

17.1

16.5

-0.6

-3.43

16.9

6,300

106,740,000

S96

25.1

25.1

23.4

-1.3

-5.18

23.8

11,100

263,850,000

S99

59.2

62.0

56.0

-0.6

-1.01

58.6

56,500

3,309,050,000

SAP

14.4

15.0

13.4

-0.8

-5.56

13.6

25,600

347,790,000

SCC

17.4

18.0

16.4

-0.3

-1.72

17.1

12,700

217,300,000

SCJ

66.5

70.0

62.1

-1.4

-2.11

65.1

111,900

7,280,160,000

SD2

29.6

31.5

28.0

0.2

0.68

29.8

14,200

422,640,000

SD3

22.6

22.6

21.1

-1.2

-5.31

21.4

25,600

547,430,000

SD4

15.0

15.9

14.9

0.0

0.00

15.0

12,400

186,590,000

SD5

43.7

46.7

44.0

1.3

2.97

45.0

26,500

1,193,810,000

SD6

28.2

30.0

26.3

-0.6

-2.13

27.6

25,200

694,660,000

SD7

35.0

37.0

33.3

0.3

0.86

35.3

152,400

5,379,660,000

SD9

31.2

33.3

29.5

0.2

0.64

31.4

168,500

5,297,930,000

SDA

41.3

44.0

40.0

1.0

2.42

42.3

84,200

3,558,230,000

SDC

29.9

31.3

28.5

0.6

2.01

30.5

2,400

73,190,000

SDD

13.8

14.7

13.0

-0.1

-0.72

13.7

45,200

620,990,000

SDJ

24.5

22.8

22.8

-1.7

-6.94

22.8

1,000

22,800,000

SDS

20.0

21.4

18.6

0.7

3.50

20.7

1,400

28,960,000

SDT

31.8

33.0

30.1

0.3

0.94

32.1

132,300

4,252,830,000

SDY

24.8

25.1

23.8

-0.1

-0.40

24.7

17,100

421,680,000

SGD

25.3

26.9

23.6

-1.6

-6.32

23.7

12,000

284,080,000

SIC

27.9

29.0

26.1

-0.4

-1.43

27.5

21,400

587,650,000

SJC

23.4

23.4

21.8

-0.9

-3.85

22.5

14,900

335,870,000

SJE

26.1

26.5

24.5

-0.4

-1.53

25.7

116,400

2,990,460,000

SJM

15.8

14.7

14.7

-1.1

-6.96

14.7

13,300

195,510,000

SNG

29.5

30.5

27.6

-0.6

-2.03

28.9

4,200

121,250,000

SPP

54.9

--

--

0.0

0.00

--

--

--

SRA

15.7

14.7

14.7

-1.0

-6.37

14.7

2,800

41,160,000

SRB

7.5

8.0

7.6

0.4

5.33

7.9

30,100

236,900,000

SSS

19.4

19.1

18.1

-0.8

-4.12

18.6

18,600

346,660,000

STC

14.6

14.6

14.0

-0.2

-1.37

14.4

20,300

292,500,000

STL

33.6

35.9

34.1

2.1

6.25

35.7

217,700

7,773,010,000

STP

26.8

28.5

25.0

-0.4

-1.49

26.4

58,400

1,539,120,000

SVC

20.2

20.6

18.8

-0.2

-0.99

20.0

37,000

741,070,000

TBC

12.6

13.4

12.6

0.6

4.76

13.2

523,000

6,886,540,000

TC6

35.1

37.5

35.1

2.1

5.98

37.2

192,300

7,156,900,000

TJC

24.7

25.4

23.8

0.0

0.00

24.7

29,600

731,790,000

TKU

13.6

14.5

12.9

0.2

1.47

13.8

26,500

365,170,000

TLC

8.4

8.8

8.0

0.2

2.38

8.6

209,100

1,789,010,000

TLT

13.7

14.5

12.8

-0.2

-1.46

13.5

63,700

860,870,000

TNG

15.0

16.0

14.1

0.1

0.67

15.1

22,200

334,370,000

TPH

18.3

19.5

19.5

1.2

6.56

19.5

100

1,950,000

TPP

18.6

17.3

17.3

-1.3

-6.99

17.3

5,000

86,500,000

TST

13.6

14.5

14.2

0.9

6.62

14.5

16,900

244,700,000

TV4

14.0

14.9

14.5

0.8

5.71

14.8

8,200

121,540,000

TXM

13.1

13.8

12.3

0.0

0.00

13.1

72,500

947,120,000

VBH

15.2

14.9

14.2

-0.9

-5.92

14.3

500

7,170,000

VC2

42.2

43.0

39.5

-1.3

-3.08

40.9

23,100

945,710,000

VC3

22.2

22.0

20.7

-1.0

-4.50

21.2

18,900

400,470,000

VC5

15.8

16.8

14.8

-0.3

-1.90

15.5

20,200

312,260,000

VC6

17.5

18.3

17.5

0.4

2.29

17.9

2,000

35,800,000

VC7

13.7

14.6

13.0

0.1

0.73

13.8

6,500

89,560,000

VCG

25.4

26.8

23.9

-0.4

-1.57

25.0

529,700

13,222,880,000

VCS

43.0

46.0

42.0

0.6

1.40

43.6

168,600

7,351,180,000

VDL

39.0

41.7

39.0

1.9

4.87

40.9

3,400

139,080,000

VE1

11.8

12.0

11.1

-0.2

-1.69

11.6

11,700

135,700,000

VE9

17.5

16.3

16.3

-1.2

-6.86

16.3

300

4,890,000

VFR

15.2

16.1

14.3

0.1

0.66

15.3

50,800

778,940,000

VMC

39.6

42.3

37.1

0.9

2.27

40.5

131,600

5,333,690,000

VNC

16.5

17.1

15.5

0.2

1.21

16.7

59,000

983,050,000

VNR

38.6

39.0

38.6

0.4

1.04

39.0

1,600

62,320,000

VSP

156.5

167.0

150.0

1.3

0.83

157.8

160,600

25,340,910,000

VTL

20.1

19.5

19.5

-0.6

-2.99

19.5

500

9,750,000

VTS

48.8

49.7

46.0

-0.5

-1.02

48.3

16,100

777,590,000

VTV

16.1

17.1

16.2

0.3

1.86

16.4

7,200

117,860,000

XMC

16.6

17.2

16.6

0.3

1.81

16.9

45,300

765,870,000

YBC

27.7

29.5

26.5

0.4

1.44

28.1

17,700

497,000,000

YSC

49.6

46.2

46.2

-3.4

-6.85

46.2

3,700

170,940,000