Chứng khoán tiếp tục hành trình dò đáy

Friday, November 21, 2008 |

Bỏ qua những thông tin tích cực trong nước, Vn-Index trọn tuần nương theo diễn biến chứng khoán thế giới, không có lấy một phiên tăng, mất tổng cộng 33,11 điểm.

Chốt tuần thứ ba của tháng 11, Vn-Index không chút ngập ngừng xuyên thủng mốc 322,08 thiết lập ngày 28/10, cùng lúc với S&P 500 xuống mức thấp nhất trong 11 năm qua. Nhiều cổ phiếu giá rẻ, bán ra dưới mức tham chiếu nhưng người mua vẫn e dè do tâm lý lo ngại thị trường sẽ tiếp tục đi xuống khiến cung áp đảo cầu. Nhóm 10 mã "đầu tàu" của HOSE đa số đều đo sàn, ngoại trừ VIC có được 2 phiên vượt dốc thành công, VNM, VPL, PPC may mắn có được 1 phiên chạm mức trần. Những mã vừa và nhỏ tuy lội ngược dòng tăng điểm nhưng chưa hình thành xu thế đi lên bền vững.

Chỉ cách mốc 300 bằng một phiên suy giảm mạnh, Vn-Index đang nhăm nhe chọc thủng đáy. Ảnh: Đ.Q.

Chỉ số chứng khoán sàn TP HCM không ngừng lao dốc và lùi gần hơn mốc 300, tuy nhiên thanh khoản thị trường những phiên trượt mạnh lại ở mức khá cao, nhất là 2 ngày cuối tuần, tương ứng lần lượt 15,7 triệu, 17,6 triệu. Tính bình quân, mỗi phiên có 13,2 triệu chứng khoán chuyển nhượng, đạt mức xấp xỉ tuần trước, tương ứng giá trị 396,7 tỷ đồng.

Tuần qua xuất hiện một loạt thông tin từng tác động tích cực đến Vn-Index như lãi suất cơ bản hạ xuống còn 11% kéo lãi suất cho vay thấp nhất tại các ngân hàng thương mại hiện nay còn 12%. Hay kế hoạch mua lại 25 triệu cổ phiếu quỹ của STB trở thành hiện thực vào tuần này. Song tất cả đều không đủ sức kéo Vn-Index quay đầu. Giới đầu tư đang theo sát diễn biến chứng khoán thế giới, động thái của Cục Dự trữ liên bang Mỹ FED cũng như hiệu ứng domino suy thoái kinh tế lan ra nhiều nước...

Chưa kể, trong tuần đã xuất hiện nhiều lo ngại về khó khăn của các doanh nghiệp niêm yết trong quý IV. Đây là thời điểm hoàn tất báo cáo tài chính năm có kiểm toán, những thông tin không minh bạch của các quý trước sẽ được phản ánh rõ nét trong báo cáo. Những bất ổn từ tác động của cuộc khủng hoảng tín dụng tại Mỹ dường như chưa có hồi kết. Tâm lý nhà đầu tư do vậy vẫn hết sức thận trọng, làm cho sức cầu trở nên yếu thế so với áp lực bán ra.

Nhà đầu tư nước ngoài trong tuần tiếp diễn xu hướng bán ròng, ngoại trừ phiên ngày 20/11, khối lượng bán mua khá cân bằng. Tổng lượng mua vào của khối ngoại nhích nhẹ so với tuần trước, đạt gần 6 triệu chứng khoán, trong khi lượng đẩy vào thị trường gấp đôi số mua, với 10,5 triệu.

Tại sàn Hà Nội, HaSTC-Index may mắn hơn khi có một phiên đi lên nhẹ, tuy nhiên, sự trượt dốc của 4 phiên còn lại lấy đi từ tổng quỹ 9,17 điểm. Chỉ số này đang đứng ở 103,9 điểm. Số chứng khoán khớp mỗi phiên xấp xỉ 6,8 triệu, tương đương 183,1 tỷ đồng.

Chứng khoán Mỹ lên điểm khi Obama lựa chọn ứng viên cho vị trí Bộ trưởng Bộ Tài chính. Cùng ngày, chứng khoán châu Á khởi sắc mạnh mẽ trong khi thị trường châu Âu đã bước sang phiên giảm thứ 3 liên tiếp.

Kết thúc phiên cuối tuần 21/11, chỉ số Dow Jones tăng 6,54% lên mức 8.046,42 điểm. Chỉ số Nasdaq đóng cửa tại 1.384,35 điểm, cao hơn phiên trước 5,18%. Chỉ số Standard & Poor 500 (S&P 500) ngừng giao dịch tại 800,03 điểm, đi lên 6,32%. Sau tuần qua, Dow Jones giảm 5,31%, Nasdaq giảm 8,74%, và S&P 500 mất 8,39%.

Dù hồi phục nhưng đà tăng của chứng khoán Mỹ khó có thể kéo dài. Ảnh: nj.com.

Tổng thống mới đắc cử Barack Obama cho hay sẽ đề cử Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang (FED) khu vực New York, ông Timothi Gethner, vào “chiếc ghế nóng” Bộ trưởng Bộ Tài chính. Ông Timothi Gethner còn giữ vai trò Phó Chủ tịch ban xây dựng chính sách của FED và là người đóng vai trò chủ chốt trong việc cứu hai tập đoàn Bear Sterns và AIG thời gian qua.

Ngân hàng Citigroup vừa phủ nhận tin đồn rao bán cho đối tác khác. Trong những phiên gần đây, cổ phiếu của tập đoàn này mất điểm mạnh, đặc biệt trong ngày thứ 5, lao dốc hơn 26%. Phiên vừa qua cũng không mấy vui vẻ với Citigroup, trong khi phần lớn các cổ phiếu đều bật xanh, chứng khoán của ngân hàng này lại tiếp tục sụt thêm hơn 20%.

Điểm sáng nhất của phố Wall là Gap. Nhà bán lẻ quần áo cho hay lợi nhuận quý III của hãng đạt dự kiến. Tin tốt trên đẩy cổ phiếu của Gap vọt lên 27%.

Theo ông Donald Selkin, nhà chiến lược thị trường tại National Securities, phiên tăng này là sự kết hợp của tin về ứng cử viên Bộ trưởng Tài chính và sự quay lại của giới đầu tư trước việc chứng khoán bị bán quá tay trong vài phiên trước. Tuy nhiên, ông Ron Kiddoo, Gián đốc đầu tư tại Cozad Asset Management, nhận định phố Wall sẽ không giữ được đà lên điểm do thị trường tiếp tục bị dẫn dắt bởi các tin được đưa ra hằng ngày. Theo ông, từ nay đến cuối năm, sẽ không có nhiều báo cáo kinh tế tích cực để hỗ trợ thị trường.

Tại châu Á, chứng khoán tại các thị trường lớn hồi phục mạnh mẽ. Sự khởi sắc của cổ phiếu ngân hàng và các nhà xuất khẩu lớn là động lực cho Nikkei 225 của Nhật bứt lên 2,7%. Tuy nhiên, sau 5 phiên gần đây, chỉ số này vẫn giảm 6,5%.

Chỉ số KOSPI của Hàn Quốc tăng mạnh 5,8%, nhưng mất 7,76% sau tuần qua. Chứng khoán Hong Kong khởi sắc khi chỉ số Hang Seng của nước này tiến thêm được 2,93%, chốt lại thấp hơn cuối tuần trước 6,5%. Tại Trung Quốc, chỉ số Shanghai Composite bất ngờ mất 0,72%, và chốt mức giảm 0,8% sau tuần qua.

Trái với không khí hồ hởi tại châu Á và Mỹ, chứng khoán châu Âu kết thúc tuần bằng một phiên giảm. Chỉ số FTSE 100 của Anh bị trừ 2,43%, chỉ số DAX của Đức mất 2,2%. Chỉ số CAC 40 của Pháp rơi 3,33%.

Tính chung cả tuần, ba chỉ số FTSE 100, DAX, và CAC 40 xuống lần lượt 10,6%, 12,3% và 12,46%.

Sau khi Dow Jones xuống dưới 8.000 điểm, đến lượt chỉ số Standard & Poor 500 (S&P 500) trở về giá trị của hơn 11 năm trước. Không chỉ phố Wall lao đao, chứng khoán tại châu Á và châu Âu cũng đồng loạt đổ dốc trong phiên hôm qua 20/11.

Chỉ số S&P 500 mất tới 6,71% đóng cửa tại 752,44 điểm, thấp nhất kể từ ngày 14/4/1997. Chỉ số công nghiệp Dow Jones trượt dốc 5,56%, kết thúc ngày giao dịch tại 7.552,29 điểm. Như vậy, chỉ trong 2 ngày, 872 điểm tương đương 10,4% đã bốc hơi khỏi chỉ số Dow Jones. Chỉ số Nasdaq hiện có giá trị 1.316,12 điểm, thấp hơn phiên trước 5,07%.

Cả Dow Jones và Nasdaq đều đang thấp nhất kể từ giữa tháng 3/2003. Kể từ khi đạt đỉnh vào tháng 9/2007, chỉ số S&P 500 đã giảm 52%. Chỉ số Dow Jones hiện cách đỉnh 47%. Con số này với Nasdaq là 54%.

Thị trường Mỹ tiếp tục rung chuyển sau những báo cáo nghèo nàn từ thị trường lao động, khối sản xuất, cũng như số phận như chỉ mành treo chuông của các nhà sản xuất xe hơi.

Tâm điểm của thị trường phiên hôm qua là việc Thượng viện hoãn cuộc bỏ phiếu thông qua kế hoạch sử dụng gói 25 tỷ đôla nhằm giải cứu cho ngành công nghiệp xe hơi. Lý do cho quyết định trên là quá ít ý kiến ủng hộ giải pháp này. Những người đứng đầu đảng Dân chủ cho hay, thượng viện sẽ họp lại vào tháng 12 để bàn về biện pháp dành cho ngành công nghiệp sản xuất xe hơi nếu các nhà sản xuất hàng đầu có thể cho biết số tiền cần thiết để họ tự vực dậy công việc kinh doanh.

Những người lãnh đạo cao nhất tại General Motor, Chrysler, và Ford đã có mặt tại Whasington cả tuần nay để thuyết phục Chính phủ bơm tiền vào các hãng. Tuy nhiên, các nhà phân tích cho rằng, tốt nhất là các công ty nên tuyên bố phá sản, tái cơ cấu lại hoạt động và sát nhập.

Tại khối tài chính, Citigroup, ngân hàng có mạng lưới dịch vụ lớn nhất thế giới, dẫn đầu xu hướng giảm của thị trường. Cổ phiếu của hãng đã mất tới 26,4%, bất kể tin tốt cổ đông lớn nhất của công ty, hoàng tử A-rập Alwaleed Bin Talalm, nói sẽ nâng tỷ lệ sở hữu từ 4% lên 5%. Trước đó, Citigroup đã cắt giảm tới 50 nghìn nhân công để giảm bớt chi phí hoạt động.

Theo báo cáo của Chính phủ, số người Mỹ mới nộp đơn đăng ký thất nghiệp tuần qua leo lên 542 nghìn, cao nhất trong 16 năm qua. Số người nhận trợ cấp thất nghiệp hiện cao nhất kể từ năm 1982.

Sau khi lên 0,1% trong tháng 9, chỉ số của các chỉ báo kinh tế hàng đầu (LEI) giảm 0,8% trong tháng 10, cao hơn dự tính 0,6% của các nhà kinh tế. Chỉ số sản xuất khu vực Philadelphia có giá trị âm 37,5 điểm trong tháng 10, tồi hơn dự đoán âm 35 điểm của các chuyên gia.

Thị trường tiếp tục ghi nhận làn sóng rút chạy của giới kinh doanh khỏi chứng khoán. Tính theo tuần từ 12/11 đến 19/11, các nhà đầu tư đã rút gần 19,5 tỷ đôla ra khỏi các quỹ tương hỗ đầu tư chứng khoán. Tuần trước nữa, số tiền bị rút khỏi thị trường còn lớn hơn, 31,8 tỷ đôla.

Phiên giảm hôm qua còn trở nên u tối hơn với diễn biến của thị trường nhiên liệu. Giá dầu chìm xuống dưới 50 đôla một thùng, sau khi mất 4,77 đôla xuống còn 49,62 đôla một thùng.

Chứng khoán châu Á cũng không thể đứng vững trước làn sóng bán ra của các nhà đầu tư. Chỉ số Nikkei 225 của Nhật bị trừ 6,89%. Chỉ số Hang Seng của Hong Kong mất 4,04%. Tại Trung Quốc, chỉ số Shanghai Composite thấp hơn tham chiếu 1,67%. Chứng khoán Hàn Quốc cũng chứng kiến chỉ số KOSPI đi xuống 6,7%.

Tương tự như diễn biến tại châu Á và phố Wall, chứng khoán châu Âu cũng chứng kiến cả ba thị trường hàng đầu đều ngập trong sắc đỏ. Chỉ số FTSE 100 của Anh hạ thấp 3,26%. Chỉ số DAX của Đức giảm 3,08%. Chỉ số CAC 40 của Pháp xuống 3,48%.

Vn-Index mất điểm mạnh

|


Hôm nay, đáy cũ 322 điểm đã bị phá ngay từ đợt một. Tuy đà giảm có chững lại trong những phút tiếp theo nhưng kết thúc phiên giá đóng của Vn-Index là 318,96 điểm, mức thấp nhất kể từ tháng 2/2006.

Diễn biến bất lợi từ thị trường thế giới thời gian gần đây đã tạo ra trở lực lớn với thị trường trong nước. Nhìn vào những gì xảy ra với phố Wall đêm qua, khi các chỉ số Dow Jones và Nasdaq đều xuống mức thấp nhất trong 5 năm còn Standard & Poor 500 thậm chí còn về giá trị của 11 năm trước, không khó để dự đoán xu hướng chứng khoán trong đợt mở cửa ngày hôm nay.

Vn-Index sau 30 phút giao dịch định kỳ đầu tiên đã giảm tới 3,14%, tương đương 10,24 điểm, xuống 315,5 điểm. Lượng thực hiện trong đợt một đạt 4,23 triệu chứng khoán, giá trị 101,45 tỷ đồng.

Đà sụt điểm mạnh đã đưa hàn thử biểu xuống thấp hơn cả đáy 322 điểm được xác lập vào 28/10. Mức mở cửa 315 điểm là giá trị thấp nhất của Vn-Index kể từ ngày 6/2/2006.

Không một mã nào trong nhóm các công ty có giá trị vốn hóa lớn nhất thị trường tăng điểm. Gần như tất cả các cổ phiếu hàng đầu đều đi xuống, trong đó SSI, STB, SJS, PPC, và FPT giảm sàn. Sau đợt một, bảng điện tử chỉ lác đác vài điểm xanh, chủ yếu rơi và các mã vốn ít, thanh khoản không cao, và có ít ảnh hưởng tới kết quả của Vn-index.

Trong những phút tiếp theo, Vn-Index hãm bớt đà giảm nhờ cầu quay lại thị trường tăng lên. Cán cân cung cầu trở nên cân bằng hơn, giúp số điểm trừ của Vn-Index vơi dần đi.

Tuy nhiên, ngay cả khi có dấu hiệu hồi phục nhẹ thì Vn-Index vẫn trượt 1,86%, tương đương 6,07 điểm, xuống còn 319,67 điểm sau đợt khớp lệnh liên tục. Số cổ phiếu được sang tên sau thời điểm này đạt 13,68 triệu chứng khoán, giá trị 353,25 tỷ đồng.

Hôm qua, lần thứ 3 trong vòng 2 tháng Ngân hàng Nhà nước quyết định hạ lãi suất. Lãi suất cơ bản tiền nội tệ giảm từ 12% xuống còn 11%. Động thái trên nằm trong gói giải pháp nới lỏng tiền tệ của Chính phủ thể hiện ở việc cắt giảm lãi suất và hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Lãi suất cho vay trên thị trường cũng xác lập đáy mới, 13% sau ngày hôm qua.

Cũng như những lần giảm giá xăng hay hạ lãi suất gần đây, tâm lý nhà đầu tư đã dần “chai” với những thông tin trên. Thực tế, giới đầu tư có lý khi không quá sốt sắng trước lãi suất mới. Đó là do các chính sách tiền tệ cần từ 3 đến 6 tháng để phát huy hiệu quả. Thế nên tin dù đây là tín hiệu tốt cho doanh nghiệp đang cần vốn nhưng liệu giải pháp của chính phủ có đạt hiệu quả cao nhất hay không chỉ có thể kiểm chứng qua tình hình vĩ mô nói chung và kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp nói riêng trong nhiều tháng tới.

Theo một chuyên gia chứng khoán, nếu chỉ dựa trên các thông tin cơ bản, sẽ không dễ để ra quyết định giao dịch tại thời điểm này. Tuy vậy khi nhìn vào phân tích kỹ thuật, có thể thấy rõ các chỉ báo như MACD, MA, Bollinger band đều đang ở trong vùng bán. Bên cạnh đó, mẫu hình đầu và hai vai xuôi vừa được xác lập cho thấy giảm điểm có thể vẫn là xu hướng chủ đạo của thị trường.

Vn-Index giảm nhanh hơn trong đợt khớp lệnh đóng cửa, từ đó khép lại ngày giao dịch tại giá trị 318,96 điểm, mất 2,08%, tương đương 6,78 điểm. Tổng số cổ phiếu sang tên sau đợt ba đạt 16,23 triệu, giá trị 420,8 tỷ đồng. Qua giao dịch thỏa thuận, có thêm 1,39 triệu chứng khoán được giao dịch, giá trị 78,69 tỷ đồng.

Trước việc hàn thử biểu rơi xuống dưới đáy cũ, cầu của thị trường đã đi lên đáng kể do nhà đầu tư gom vào để dò đáy. So với phiên trước tổng lượng cổ phiếu sang tên đã tăng 26,4%.

Toàn sàn HOSE có 30 mã tăng, 34 mã đứng giá và 106 mã giảm.

Tại sàn Hà Nội, HaSTC-Index kết thúc phiên giao dịch tại 103,9 điểm, xuống 2,59 điểm, tương ứng 2,43%. Tổng giao dịch toàn sàn đạt xấp xỉ 6,8 triệu cổ phiếu, giá trị 173,4 tỷ đồng.

-Phiên giao dịch cuối tuần ghi nhận sự nỗ lực của thị trường tuy nhiên đà giảm mạnh ngay đầu phiên cùng với những thông tin không mấy thuận lợi từ thị trường chứng khoán Mỹ đã khiến VN-Index có một tuần trọn vẹn đi xuống.


Phiên giao dịch trước đó có khối lượng giao dịch bất ngờ tăng lên khá mạnh đã mở ra nhiều hy vọng cho phiên giao dịch cuối tuần này đồng thời cũng giúp VN-Index không phá vỡ đáy được thiết lập cuối tháng 10 vừa qua.

Tuy nhiên những thông tin xấu từ thị trường chứng khoán Mỹ khi trong phiên giao dịch kết thúc rạng sáng nay (theo giờ VN), thị trường này tiếp tục mất điểm mạnh với biên độ các chỉ số đều giảm trên 5%. Trong khi đó sắc đỏ cũng là màu chủ đạo trên thị trường chứng khoán Châu Á trong phiên giao dịch buổi sáng nay.

Phản ứng ngay với thông tin xấu trên, ngay trong đợt 1, chỉ số VN-Index tiếp tục giảm mạnh 10,24 điểm (tương đương giảm 3,14%) xuống còn 315,5 điểm. Tuy vậy lượng giao dịch vẫn gây được ấn tượng khi duy trì khá tốt sau đợt mở cửa này với hơn 4,23 triệu đơn vị được chuyển nhượng với giá trị là 101,45 tỷ đồng.

Lượng giao dịch khá ấn tượng này phần nào trấn an tâm lý giới đầu tư và ngay khi sang đợt khớp lệnh liên tục, đà lao dốc của VN-INdex được hãm bớt khi sức mua dần tăng lên, chỉ số VN-Index sau đợt 2 này còn giảm 6,07 điểm (tương đương giảm 1,86%) xuống 319,67 điểm.

Giao dịch tiếp tục được duy trì tốt với gần 13,7 triệu chứng khoán được giao dịch với giá trị là 353,25 tỷ đồng.

Những nỗ lực đó chỉ giúp VN-Index giảm bớt ảm đạm và chỉ số này không thể đảo chiều tăng điểm và chung cuộc VN-Index vẫn giảm khá mạnh 6,78 điểm (tương đương giảm 2,08%) đóng cửa ở mức 318,96 điểm.

Như vậy sau 1 tuần giao dịch mất điểm cả 5 phiên, VN-Index đã lại phá đáy được lập hôm cuối tháng 10 vừa qua là 322,8 điểm. Tổng số điểm VN-Index mất đi sau 5 phiên này là 33,11 điểm, tức là giảm 9,4% so với mức điểm đóng cửa cuối tuần trước.

Khối lượng giao dịch vẫn là điểm sáng của phiên giao dịch này khi tổng khối lượng cổ phiếu và chứng chỉ quỹ được khớp lệnh thành công phiên này tiếp tục tăng lên và đứng ở mức khá cao với hơn 16,22 triệu chứng khoán, giá trị là 420,78 tỷ đồng. Như vậy về khối lượng đã tăng 13% và tăng 20% về giá trị so với lượng khớp lệnh phiên trước đó.

Trong tổng số 166 mã cổ phiếu và 4 chứng chỉ quỹ niêm yết phiên này, số mã giảm giá vẫn chiếm đa số với hơn 60% giảm giá. Cụ thể, đã có 104 mã giảm giá (trong đó có 41 mã giảm sàn), 34 mã đứng giá và 30 mã tăng giá (chỉ có 1 mã tăng giá trần), 2 mã không có giao dịch là SGH của Khách sạn Sài Gòn và DPC của Nhựa Đà Nẵng.

Nhóm 10 cổ phiếu có mức vốn hoá lớn phiên này chỉ có VPL của Du lịch Thương mại Vinpearl tăng nhẹ (+1.000 đồng lên 95.000 đồng/cp) còn lại đều giảm giá trong đó có PPC của Nhiệt điện Phả Lại và PVF của Tài Chính Dầu Khí giảm giá sàn.

Nhóm cổ phiếu tăng giá có một số mẫ đáng chú ý như: DHG của Dược Hậu Giang, NTL của Nhà Từ Liêm, HDC của Hodeco, REE của Cơ điện Lạnh, BBC của Bibica...

Về khối lượng giao dịch, phiên này vẫn tập trung chủ yếu và các mã cổ phiếu lớn, trong đó STB của Sacombank đã chiếm đến 25% giao dịch khớp lệnh phiên này khi có hơn 4,25 triệu cổ phiếu được giao dịch, DPM của Đạm Phú Mỹ cũng tăng khá mạnh với gần 1,2 triệu cổ phiếu, SSI của Chứng khoán Sài Gòn là 0,7 triệu cổ phiếu. Sau đó là các mã khác như FPT của Tập đoàn FPT, REE, PVF, TDH của Nhà Thủ Đức, HPG của Hoà Phát...

Chi tiết giao dịch ngày 21/11:
(Đơn vị giá: 1.000đ; Đơn vị KL: 1 CP)

Mã CK

Giá cao nhất

Giá thấp nhất

Giá đóng cửa

Thay đổi

%Thay đổi

Khối lượng

ABT

27.1

26.7

26.8

-0.3

-1.11

12,860

ACL

24.9

24.9

24.9

-1.3

-4.96

19,670

AGF

16.6

16

16.5

0

0.00

11,720

ALP

9.1

8.8

9.1

0

0.00

11,970

ALT

24.2

24.1

24.1

0.1

0.42

20

ANV

19.5

19.3

19.3

-1

-4.93

260,020

ASP

11

10.4

10.5

0

0.00

20,770

BAS

12.3

12.3

12.3

0

0.00

70

BBC

14.6

13.9

14.6

0.1

0.69

25,830

BBT

5.7

5.7

5.7

-0.3

-5.00

8,250

BHS

14.4

13.5

14.4

0.4

2.86

13,560

BMC

70.5

67.5

70

-0.5

-0.71

28,750

BMI

18.3

18.1

18.1

-0.9

-4.74

11,160

BMP

30

28.5

30

0.1

0.33

18,130

BPC

11.8

11.1

11.8

0.4

3.51

520

BT6

53.5

53.5

53.5

-2.5

-4.46

101,810

BTC

21.9

21.9

21.9

-1.1

-4.78

3,050

CAN

12.6

12.2

12.2

-0.5

-3.94

38,720

CII

25.4

24.1

25.4

0.1

0.40

30,680

CLC

19.6

19.4

19.4

-1

-4.90

15,310

CNT

11.6

11.6

11.6

-0.2

-1.69

2,000

COM

33.7

32.2

33.7

0

0.00

7,280

CYC

11.2

10.7

11

-0.2

-1.79

8,230

DCC

11.8

11.3

11.3

-0.5

-4.24

13,220

DCL

30

29

29

-1.5

-4.92

10,280

DCT

9

8.9

9

-0.1

-1.10

19,300

DDM

15.6

14.3

14.5

-0.5

-3.33

32,420

DHA

19.6

18.9

19.5

-0.1

-0.51

11,340

DHG

114

108

114

2

1.79

45,070

DIC

16

15.6

15.7

0

0.00

25,200

DMC

50.5

49.9

50

-2.5

-4.76

47,560

DNP

10

9.9

10

0

0.00

3,460

DPC






0

DPM

37.4

35.8

37.2

-0.1

-0.27

1,176,960

DPR

31

29.9

29.9

-1.5

-4.78

74,150

DQC

17.1

16.1

16.6

-0.2

-1.19

50,390

DRC

21

19.4

19.8

-0.2

-1.00

22,000

DTT

10.9

10.5

10.9

-0.1

-0.91

1,500

DXP

23

22.1

22.3

-0.9

-3.88

22,130

DXV

7.2

7

7

-0.3

-4.11

37,340

FBT

13.8

13.8

13.8

-0.7

-4.83

7,220

FMC

11.8

11.3

11.3

0

0.00

38,800

FPC

19.5

18.6

18.6

-0.9

-4.62

1,720

FPT

53

49.9

50.5

-2

-3.81

614,730

GIL

14.5

14.2

14.3

-0.2

-1.38

13,090

GMC

16.6

15.4

16

-0.1

-0.62

2,020

GMD

31

30.7

30.7

-1.6

-4.95

211,230

GTA

8.9

8.7

8.7

-0.2

-2.25

1,260

HAP

19.6

18.7

19.6

0

0.00

32,150

HAS

11.7

11.5

11.6

0

0.00

5,320

HAX

16.7

15.9

15.9

-0.8

-4.79

9,710

HBC

17.6

16

16

-0.8

-4.76

101,720

HBD

11.4

11

11.4

0.4

3.64

3,350

HDC

22.8

21.9

22.6

0.1

0.44

6,780

HLA

17.3

17.1

17.1

-0.9

-5.00

22,410

HMC

13.1

13

13

-0.6

-4.41

47,290

HPG

30.1

28.8

29.9

-0.2

-0.66

452,020

HRC

31.3

29.8

31.3

0.1

0.32

54,170

HSI

12.5

11.9

12.2

0

0.00

15,700

HT1

13.5

12.7

13.3

0

0.00

9,040

HTV

9.8

9.5

9.6

-0.3

-3.03

9,870

ICF

8.2

7.9

8

-0.1

-1.23

12,350

IFS

8

7.9

8

0.1

1.27

7,300

IMP

68

66

67.5

0

0.00

5,000

ITA

28.5

27.3

28.4

-0.1

-0.35

186,760

KDC

30.6

29.8

29.9

-1.1

-3.55

143,240

KHA

12.3

11.8

11.8

-0.5

-4.07

49,010

KHP

10.8

10.4

10.7

0

0.00

27,020

KMR

6.7

6.5

6.5

-0.3

-4.41

50,330

KSH

14.2

14.2

14.2

-0.7

-4.70

20

L10

12.2

11.8

12

0

0.00

1,320

LAF

11.8

11.4

11.5

-0.2

-1.71

63,760

LBM

17.5

16.7

16.7

-0.8

-4.57

46,710

LCG

41.3

41.3

41.3

-2.1

-4.84

10

LGC

16.5

15.8

16.3

0.5

3.16

9,230

LSS

16

15.2

15.2

-0.8

-5.00

20,160

MAFPF1

4

3.8

4

0

0.00

42,120

MCP

14.9

14.3

14.3

-0.7

-4.67

17,140

MCV

10.4

10.1

10.2

-0.4

-3.77

56,580

MHC

9.7

9.5

9.6

-0.2

-2.04

32,300

MPC

11.6

11.2

11.5

0

0.00

47,670

NAV

14

13.1

13.2

-0.3

-2.22

22,380

NHC

42.9

41

42.9

-0.1

-0.23

2,350

NKD

32

30.2

30.2

-1.2

-3.82

620

NSC

25.1

24.3

24.9

-0.6

-2.35

18,430

NTL

37

34.8

36.9

0.7

1.93

20,410

OPC

28.6

28.5

28.5

-1.4

-4.68

2,430

PAC

39

38.4

39

0

0.00

14,530

PET

15.7

15.3

15.3

-0.8

-4.97

155,910

PGC

10.9

10.6

10.6

-0.4

-3.64

38,870

PIT

13.8

12.9

13.4

0

0.00

10,800

PJT

12.7

12.4

12.7

0.2

1.60

23,350

PMS

17.8

17

17.8

0.8

4.71

4,990

PNC

10

10

10

0

0.00

2,500

PPC

21

20.9

20.9

-1

-4.57

372,370

PRUBF1

4.1

3.9

4.1

0.1

2.50

67,900

PVD

68

65

65

-2.5

-3.70

325,540

PVF

18

17.5

17.5

-0.9

-4.89

486,360

PVT

16.9

16

16.4

-0.2

-1.20

103,350

RAL

28

26.6

28

0

0.00

33,470

REE

23.1

21.8

22.8

0.2

0.88

531,130

RHC

21.9

20.2

21.9

0.7

3.30

6,190

RIC

18.5

17.6

18.5

0

0.00

13,680

SAF

19

19

19

0

0.00

680

SAM

16

15.4

15.7

-0.2

-1.26

354,630

SAV

13.4

13

13.2

-0.1

-0.75

1,900

SBT

9.2

9.1

9.2

0

0.00

64,150

SC5

25.2

25.2

25.2

-1.3

-4.91

29,340

SCD

15.9

15.2

15.9

-0.1

-0.62

1,030

SDN

17

16

16

-0.5

-3.03

310

SFC

34.4

33

34.4

1.1

3.30

810

SFI

41.4

39.4

39.4

-2

-4.83

83,630

SFN

10

9.7

9.7

-0.4

-3.96

2,310

SGC

12

11.8

11.8

-0.5

-4.07

5,500

SGH






0

SGT

22.8

21.7

21.7

-1.1

-4.82

49,060

SHC

21

20.9

20.9

-1

-4.57

37,570

SJ1

15

15

15

0.5

3.45

30

SJD

14

13.6

14

0

0.00

10,920

SJS

65

63.5

63.5

-3

-4.51

192,410

SMC

21.3

19.9

20

-0.9

-4.31

20,260

SSC

19.7

19.5

19.5

-1

-4.88

53,850

SSI

31

28.5

30

0

0.00

713,370

ST8

23.8

22.9

22.9

-0.9

-3.78

4,150

STB

21.2

20.5

20.6

-0.9

-4.19

4,252,310

SZL

61

58.5

61

1.5

2.52

56,900

TAC

24.5

23.8

23.8

-1.2

-4.80

312,880

TCM

9.8

9.8

9.8

-0.5

-4.85

29,770

TCR

9.8

9.1

9.1

-0.4

-4.21

14,270

TCT

79

74.5

78

0.5

0.65

4,310

TDH

33

30.4

31.9

0

0.00

455,080

TMC

23.8

21.9

23.8

0.8

3.48

10,320

TMS

33.8

33.8

33.8

-1.7

-4.79

10

TNA

17.7

17.4

17.7

0.7

4.12

6,590

TNC

10

9.5

10

0.2

2.04

17,430

TPC

8

7.8

8

0

0.00

29,980

TRC

30.5

29.2

29.7

-1

-3.26

82,010

TRI

9.1

8.7

8.7

-0.4

-4.40

154,130

TS4

9.5

9.1

9.4

-0.1

-1.05

13,810

TSC

41.7

39.8

39.8

-2

-4.78

26,920

TTC

9.7

9.4

9.5

-0.3

-3.06

11,370

TTF

16

15.7

15.7

-0.7

-4.27

4,900

TTP

19.5

19

19.3

0.1

0.52

64,690

TYA

12.8

12.3

12.8

0

0.00

27,570

UIC

11.9

11.4

11.9

0.2

1.71

16,100

UNI

15

14.3

15

0

0.00

19,230

VFC

9.1

8.5

8.6

-0.2

-2.27

4,250

VFMVF1

8.3

8

8

-0.4

-4.76

407,340

VFMVF4

4.8

4.4

4.5

-0.1

-2.17

122,600

VGP

21.4

20

21.4

0.4

1.90

260

VHC

19

18.2

18.5

-0.5

-2.63

144,210

VHG

8.4

8

8.1

-0.2

-2.41

3,820

VIC

79

78.5

78.5

-0.5

-0.63

109,940

VID

9.6

9.3

9.6

0

0.00

46,350

VIP

12

11.6

11.8

0

0.00

242,390

VIS

24.5

22.8

23

-1

-4.17

36,300

VKP

7.9

7.6

7.7

-0.3

-3.75

20,590

VNA

21

20.2

20.4

-0.8

-3.77

186,630

VNE

7.2

6.9

7

-0.2

-2.78

100,380

VNM

82.5

79

81

-1.5

-1.82

76,640

VNS

19

18.5

18.9

-0.1

-0.53

60,710

VPK

8.4

8.3

8.4

0.1

1.20

1,340

VPL

96

93.5

95

1

1.06

74,960

VSC

58

55.5

56

-1.5

-2.61

23,740

VSG

13.3

12.9

12.9

-0.6

-4.44

6,000

VSH

26.8

26

26

-0.8

-2.99

212,110

VTA

7.6

7.3

7.6

0

0.00

4,360

VTB

14.9

14.2

14.9

0

0.00

1,750

VTC

10

9.8

10

-0.3

-2.91

1,600

VTO

12.7

12.3

12.4

-0.3

-2.36

123,710

ATPVietnam