Tỷ giá USD/VND tăng vọt, vàng đứng giá

Monday, November 3, 2008 |

Một số cửa hàng buôn bán ngoại tệ lớn trên phố Hà Trung (Hà Nội) niêm yết tỷ giá USD/VND ở mức: 17.020 VND (mua vào) - 17.050 VND (bán ra), tăng tới 90 VND so với thứ 6 tuần qua.

Đại diện một cửa hàng cho hay: Tỷ giá USD/VND tăng vọt là do “sự điều chỉnh của thị trường”.

Tỷ giá giao dịch của ngân hàng thương mại do Ngân hàng Nhà công bố cũng tăng 15 VND so với ngày cuối tuần trước, lên mức 16.810 - 16.835 VND; tuy nhiên, tỷ giá bình quân liên ngân hàng lại giảm 1 VND, xuống còn 16.510 VND.

Ngân hàng Nhà nước cho biết, tuần qua, tỷ giá USD/VND trên thị trường trong nước bắt đầu có biểu hiện ổn định trở lại. Tỷ giá USD/VND niêm yết của các ngân hàng thương mại dao động ở quanh mức 16.828 -16.845 VND, đến sáng ngày 30/10, tỷ giá niêm yết tại đây đã giảm xuống mức 16.800 - 16.830 VND, tỷ giá bán dưới mức trần được phép khoảng 15 - 30 VND/USD.

Ảnh hưởng bởi tỷ giá và đặc biệt là thị trường vàng thế giới đóng cửa trong 2 ngày nghỉ cuối tuần, giá vàng trong nước phiên sáng nay đứng giá so với chốt phiên cuối tuần trước.

Cụ thể, vàng SJC niêm yết ở mức: 1,66 triệu đồng/chỉ (mua vào) - 1,678 triệu đồng/chỉ (bán ra); vàng Bảo Tín Minh Châu ở mức: 1,66 triệu đồng/chỉ - 1,67 triệu đồng/chỉ.

Hiện tại, giá vàng giao ngay tại trang Kitco.com có biên độ tăng 9,2 USD/ounce, lên mức 732,9 USD/ounce. Như vậy, so với giá thế gới, giá vàng trong nước đang cao hơn khoảng 180.000 đồng/chỉ.

Chứng khoán hãm đà tăng

|

Không khí ẩm ướt, u ám của những ngày mưa dường như lan sang cả sàn chứng khoán khiến HaSTC-Index giảm 1,74%, cắt đứt chuỗi tăng điểm kéo dài 3 phiên. Tại sàn TP HCM, Vn-Index vẫn đi lên, song đà tăng đã chững lại.

Sau những ngày tăng liên tiếp từ tuần trước, đà đi lên của chứng khoán Việt Nam đã có dấu hiệu chững lại trong phiên sáng nay 3/11. Trong những phút đầu của phiên giao dịch lượng cầu áp đảo hơn so với cung, đẩy giá của phần lớn cổ phiếu đi lên. Tuy nhiên, càng về cuối đợt một, các lệnh bán ATO cũng như giá dưới tham chiếu được đẩy vào hệ thống đã kéo lùi giá của khá nhiều cổ phiếu hàng đầu, từ đó xác lập số điểm cộng cho Vn-Index trong đợt mở cửa chỉ vẻn vẹn 0,68 điểm , tương đương 0,2%. Vn-Index mở đầu tuần mới tại 347,73 điểm.

Lượng thực hiện trong đợt một đạt 3,63 triệu chứng khoán, giá trị giao dịch 95,02 tỷ đồng. Tuy tốc độ tăng giá có phần chững lại nhưng tính thanh khoản của đợt một hôm nay là tương đối tốt so với những phiên giao dịch gần đây.

Giá giảm, song giao dịch tăng 20% tại sàn TP HCM. Ảnh: Hoàng Hà.
Giá giảm, song giao dịch tăng 20% tại sàn TP HCM. Ảnh: Hoàng Hà.

Nhà đầu tư có lý do để lo lắng trong những phút đầu của đợt khớp lệnh thứ hai, khi Vn-Index nhanh chóng đánh mất số điểm cộng ít ỏi của đợt một, và sụt xuống dưới mốc tham chiếu. Có những thời điểm, Vn-Index lên giảm trên dưới 1%. Tuy nhiên, từ mức đáy này, lượng cung khá tốt quay lại thị trường đã đưa hàn thử biểu hồi phục.

Chỉ trong khoảng 20 phút giữa đợt hai, Vn-Index nhảy từ vạch -1% qua mốc 0 rồi đạt mức tăng 1%. Tuy nhiên, lại một lần nữa sự e dè của nhà đầu tư đã khiến đà tăng này chững. Kết thúc đợt hai, Vn-Index chốt 348,32 điểm, cao hơn tham chiếu 0,37% tương đương 1,27 điểm. Tương tự như đợt một, giao dịch trong đợt hai tiếp tục được đẩy mạnh khi tổng số chứng khoán được sang tên đạt 13,75 triệu, giá trị tương ứng 382,85 tỷ đồng.

Các blue-chip có diễn biến trái chiều với số cổ phiếu tăng điểm chiếm đa số. Trong khi nhóm giảm điểm chỉ có DPM, REE, RAL là đáng chú ý thì danh sách cổ phiếu bật xanh còn nhiều cái tên nổi bật hơn như FPT, VPL, VNM, PVD, PPC hay SAM. SSI trở thành cổ phiếu được săn đón nhất trong ngày khi tăng 1.500 đồng lên ngưỡng trần 33.300 đồng một cổ phiếu. Tổng dư mua trần và ATO của đợt 3 ngót nghét 750 nghìn cổ phiếu. Lượng bán ít ỏi gần 6.500 cổ phiếu rõ ràng không đủ để thỏa mãn nhu cầu của các nhà đầu tư.

Vn-Index kết thúc ngày giao dịch tại 348,64 điểm, cao hơn phiên trước 0,46%, ứng với 1,59 điểm. Toàn sàn có 58 mã tăng, 20 mã đứng giá và 89 cổ phiếu giảm giá. Lượng trao tay qua giao dịch báo giá là 15,6 triệu chứng khoán, ngang với giá trị 432,59 tỷ đồng. Bên cạnh đó, có 1,33 triệu được thực hiện qua giao dịch thỏa thuận. Lượng cổ phiếu được sang tên phiên này cao hơn phiên trước khoảng 20%.

Không giữ được phong độ như Vn-Index, tại sàn Hà Nội, chuỗi phiên tăng của HaSTC-Index đã dừng lại tại số 3, sau phiên hôm nay. Chỉ số này hiện có giá trị 112,88 điểm, giảm 2 điểm, tương đương 1,74%. Tổng khối lượng giao dịch 8,54 triệu chứng khoán, giá trị 219,61 tỷ đồng.

Tìm hiểu về Dow Jones

|

Xin cho tôi biết một số thông tin về chỉ số Dow Jones của thị trường Mỹ. (Nguyễn Ngọc Quỳnh)

Trả lời

Dow Jones là chỉ số giá chung của 65 chứng khoán đại diện, thuộc nhóm hàng đầu (blue-chip) trong các chứng khoán được niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán New York. Dow Jones bao hàm 3 chỉ số thuộc 3 nhóm ngành: Công nghiệp DJIA (Dow Jones Industrial Average), vận tải DJTA (Dow Jones Transportation Average) và dịch vụ DJUA (Dow Jones Utilities Average).

Chỉ số DJIA: là chỉ số lâu đời nhất ở Mỹ do ông Charles H.Dow, cùng với công ty mang tên ông, thu thập giá đóng cửa của chứng khoán để tính ra và công bố trên Wall Street Journal từ năm 1896. Ban đầu, công ty chỉ tính giá bình quân của 12 cổ phiếu. Ngày tính đầu tiên là 26/5/1896 với mức giá bình quân ngày này là 40,94 đôla. Năm 1916, ông mở rộng ra 20 cổ phiếu và năm 1928 tăng lên 30 cổ phiếu. Số lượng này được giữ vững cho đến ngày nay. Nhóm Top 30 này thường xuyên có sự thay đổi. Khi công ty nào sa sút đến độ không đủ tiêu chuẩn để có thể được xếp vào Top 30 của các cổ phiếu blue-chip, công ty đó lập tức sẽ bị thay thế bằng một công ty khác đang trên đà tăng trưởng. Công ty duy nhất luôn có mặt trong Top 30 kể từ buổi sơ khai của thị trường chứng khoán là General Electric.

Chỉ số DJTA: được công bố lần đầu tiên vào ngày 26/10/1896. Cho đến 2/1/1970, chỉ số này vẫn mang tên chỉ số công nghiệp đường sắt, vì trong khoảng thời gian này, ngành đường sắt phát triển rất mạnh và đường sắt chính là phương tiện vận tải chủ yếu. Chỉ số DJTA bao gồm 20 cổ phiếu của 20 công ty vận tải, đại diện cho ngành đường sắt, đường thuỷ và hàng không, được niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán New York. Từ năm 1970 đến nay, chỉ số này trở thành một bộ phận của chỉ số DowJones. Mặc dù đã sát nhập với Dow Jones và không có mặt trên thị trường chứng khoán, nhưng một số các công ty thuộc ngành đường sắt Mỹ vẫn tính toán định kỳ chỉ số DJTA cho riêng mình nhằm đánh giá thực trạng hoạt động trong nội bộ ngành.

Chỉ số DJUA: là chỉ số ngành dịch vụ công cộng, được công bố trên Wall Street Journal từ tháng 1/1929. Chỉ số này được tính từ giá đóng cửa chứng khoán của 15 công ty lớn nhất trong ngành khí đốt và điện.

Tuy chỉ có 65 cổ phiếu nhưng khối lượng giao dịch của chúng chiếm đến hơn 3/4 khối lượng của thị trường chứng khoán New York, vì thế, chỉ số Dow Jones thường phản ánh đúng xu thế biến động giá của thị trường chứng khoán Mỹ.

Đà tăng điểm của chỉ số VN-Index trong phiên giao dịch sáng nay đã chậm lại và vẫn chưa thể vượt được qua ngưỡng 350 điểm cho dù đã lên sát mức này trong phiên giao dịch cuối tuần qua.

Mọi sự quan tậm của giới đầu tư trong phiên giao dịch sáng nay dường như được dồn cho cổ phiếu mới niêm yết trên sàn GDCK Tp Hồ Chí Minh phiên sáng nay bởi mức ảnh hưởng của cổ phiếu này tới thị trường được đánh giá là khá lớn bởi khối lượng niêm yết lớn nhất trên sàn này.

Đó là cổ phiếu PVF của Tổng công ty Cổ phần tài Chính Dầu khí - PVFC với tổng khối lượng niêm yết là 500 triệu cổ phiếu với mức giá tham chiếu trong ngày hôm nay là 30.000 đồng/cổ phiếu và biên độ dao động là 20%.

Khởi đầu phiên giao dịch với tâm lý thận trọng, chỉ số VN-Index khi kết thúc đợt 1 tiếp tục tăng điểm nhưng chỉ nhích nhẹ 0,68 điểm (tương đương tăng 0,2%) lên 347,73 điểm. Khối lượng giao dịch ở mức trung bình với hơn 3,6 triệu đơn vị, giá trị là 95 tỷ đồng.

Đợt khớp lệnh liên tục giao dịch khá giằng co và VN-Index đã nhiều lúc giảm điểm tuy nhiên mức độ giảm cũng không nhiều, tuy vậy kết thúc đợt 2, chỉ số này cũng đã tiếp tục tăng nhẹ 1,27 điểm (tương đương tăng 0,37%) lên 348,32 điểm.

Khối lượng giao dịch có chiều hướng tăng lên với hơn 13,75 triệu đơn vị được chuyển nhượng sau khi kết thúc đợt 2 này, tương đương với giá trị chứng khoán là 382,85 tỷ đồng.

Đợt 3 khép lại phiên giao dịch đầu tuần mới, chỉ số VN-Index đã tiếp tục có phiên tăng điểm thứ 4 liên tiếp, cụ thể chỉ số này tăng nhẹ 1,59 điểm (tương đương tăng 0,46%) lên 348,64 điểm.

Tổng khối lượng giao dịch của cổ phiếu và chứng chỉ quỹ được khớp lệnh trong phiên này tăng lên so với phiên giao dịch cuối tuần qua với hơn 15,6 triệu đơn vị được giao dịch với giá trị đạt 432,59 tỷ đồng. Như vậy đã tăng gần 30% về khối lượng và giá trị so với phiên cuối tuần qua.

Với sự góp mặt của PVF thì tổng khối lượng cổ phiếu và chứng chỉ quỹ niêm yết trên sàn HOSE đã tăng lên 167 mã (trong đó có 163 mã cổ phiếu và 4 chứng chỉ quỹ), trước đó ít ngày đã có 2 cổ phiếu khác niêm yết mới là HLA của CTCP Hữu Liên Á Châu và OPC của CTCP Dược phẩm OPC.

Ghi nhận phiên này đã có 58 mã tăng giá (trong đó có 15 mã tăng giá trần), 20 mã đứng giá, và 89 mã giảm giá (trong đó có 33 mã giảm giá sàn).

Cổ phiếu được nhiều quan tâm phiên này là PVF đã giảm sàn ngay 6.000 đồng, so với mức giá tham chiếu 30.000 đồng thì cổ phiếu này đã giảm hết 20% biên độ cho phép trong ngày đầu với khối lượng giao dịch khá khiêm tốn là 153.460 cổ phiếu, trong khi đó kết thúc phiên vẫn còn hơn 1,4 triệu cổ phiếu dư bán giá sàn.

Trong khi đó một số cổ phiếu khác khá nặng ký níu kéo khiến VN-Index chưa thể vượt qua ngưỡng 350 điểm như DPM của Đạm Phú Mỹ (-1.800 đồng xuống 45.200 đồng/cp), HPG của Hoà Phát (-200 đồng xuống 32.300 đồng/cp), PVD của PV Drlling (-500 đồng xuống 79.500 đồng/cp).

Trong khi đó nhóm cổ phiếu vốn hoá lớn khác hỗ trơ khá tốt khi đã tăng điểm ấn tượng như: SSI của Chứng khoán Sài Gòn tăng trần (+1.500 đồng lên 33.300 đồng/cp), FPT của CTCP Phát triển Đầu tư Công nghệ FPT (+3.500 đồng lên 78.000 đồng/cp), PPC của Nhiệt điện Phả Lại cũng tăng trần (+1.100 đồng lên 23.400 đồng/cp). Ngoài ra còn có VNM của Vinamilk, STB của Sacombank và VPL của Vinpearl JSC...

Về khối lượng khớp lệnh của từng cổ phiếu, STB tăng mạnh (hơn 4 triệu cp), SSI (hơn 1,1 triệu cp), SAM (0,93 triệu cp), FPT (0,72 triệu cp), PPC (0,53 triệu cp), VTO (0,44 triệu cp), REE (0,43 triệu cp), DPM (0,41 triệu cp)...

Chi tiết giao dịch ngày 3/11:
(Đơn vị giá: 1.000đ, Đơn vị KL: 1 CP)

Mã CK

Giá cao nhất

Giá thấp nhất

Giá đóng cửa

Thay đổi

%Thay đổi

Khối lượng

ABT

27.7

25.7

25.7

-1.2

-4.46

22,650

ACL

33

32.5

32.5

-1.7

-4.97

27,290

AGF

18

17.9

17.9

-0.1

-0.56

13,200

ALP

10.5

10

10

-0.5

-4.76

31,480

ALT

25.8

24.5

25.5

0.9

3.66

330

ANV

21

20.6

20.9

-0.1

-0.48

48,900

ASP

11

10.5

10.8

-0.1

-0.92

13,340

BBC

16.3

15.3

15.7

0

0.00

57,530

BBT

6.3

6.3

6.3

0.3

5.00

36,140

BHS

15.7

14.6

14.7

-0.6

-3.92

3,760

BMC

82

77.5

81

2

2.53

41,520

BMI

18.9

18

18.9

0.9

5.00

16,210

BMP

35

34

35

-0.5

-1.41

13,800

BPC

12.2

11.3

12

0.2

1.69

610

BT6

58

56

56

-2

-3.45

5,120

BTC

26

24.5

26

0.3

1.17

2,700

CAN

12.3

11.6

12.3

0.3

2.50

6,340

CII

27.4

26.2

27.4

0.4

1.48

106,370

CLC

16.6

16.3

16.6

0.1

0.61

4,640

CNT

12.2

11.8

12.2

0

0.00

12,280

COM

34.5

33.3

34.5

-0.5

-1.43

6,000

CYC

15

13.8

13.8

-0.7

-4.83

12,640

DCC

12.3

11.6

11.6

-0.6

-4.92

7,790

DCL

34

32

32.4

-1.2

-3.57

42,590

DCT

10

9.8

9.9

-0.2

-1.98

20,340

DDM

16.2

15.4

15.4

-0.8

-4.94

63,030

DHA

21.7

20.4

21

-0.4

-1.87

59,810

DHG

113

108

113

5

4.63

16,340

DIC

17

16.6

16.6

-0.8

-4.60

41,230

DMC

53.5

49.4

53.5

1.5

2.88

62,090

DNP

10.8

10.4

10.5

-0.3

-2.78

4,180

DPC

11.6

11.5

11.6

0.2

1.75

40

DPM

46.8

45

45.2

-1.8

-3.83

413,650

DPR

35.3

34.8

35.3

1.6

4.75

35,760

DQC

18.5

17.6

18.2

0

0.00

39,930

DRC

23.4

21.5

23.4

0.9

4.00

10,910

DTT

11.4

10.9

11.4

0.5

4.59

1,010

DXP

26.9

25.5

26

-0.3

-1.14

8,110

DXV

8.4

8.1

8.4

-0.1

-1.18

10,500

FBT

16.8

15.7

16.8

0.3

1.82

27,050

FMC

11.1

10.8

10.8

-0.3

-2.70

30,160

FPC

20

19

20

0

0.00

270

FPT

78

74.5

78

3.5

4.70

720,560

GIL

15.7

15

15.1

-0.5

-3.21

38,540

GMC

15.9

14.5

15.1

-0.1

-0.66

11,530

GMD

34.5

32

33.5

0

0.00

33,770

GTA

11

10

10

-0.5

-4.76

4,700

HAP

21.5

20.8

21

-0.8

-3.67

59,240

HAS

12.4

12.4

12.4

-0.6

-4.62

6,320

HAX

17.8

17

17

-0.8

-4.49

15,420

HBC

17

16.5

16.5

-0.5

-2.94

27,510

HBD

10.5

10.5

10.5

-0.5

-4.55

6,230

HDC

23.7

22.6

22.8

-0.9

-3.80

19,550

HLA

27.6

27.6

27.6

-1.4

-4.83

19,640

HMC

15.7

15.1

15.2

-0.6

-3.80

19,690

HPG

33.5

31

32.3

-0.2

-0.62

809,530

HRC

25.8

25.3

25.8

1.2

4.88

42,230

HSI

13.8

13.2

13.5

-0.1

-0.74

14,660

HT1

15.5

14.9

15

-0.6

-3.85

24,980

HTV

10.8

10.5

10.5

-0.5

-4.55

12,410

ICF

9.6

9.2

9.2

-0.4

-4.17

19,050

IFS

9.6

9.2

9.2

-0.4

-4.17

6,040

IMP

74

73.5

73.5

-3.5

-4.55

8,030

ITA

31.9

30.5

31.8

1.4

4.61

319,800

KDC

34.6

33.4

34

0

0.00

97,670

KHA

12.9

12.3

12.7

0.3

2.42

37,160

KHP

11.8

11.1

11.5

-0.1

-0.86

38,700

KMR

7.8

7.5

7.5

-0.3

-3.85

45,140

L10

12.5

11.6

12.5

0.3

2.46

1,500

LAF

13.2

12.6

12.9

-0.1

-0.77

25,280

LBM

23

21.1

23

0.8

3.60

41,320

LGC

19

18.6

18.7

-0.8

-4.10

29,170

LSS

14.8

14.2

14.8

0

0.00

8,430

MAFPF1

4.5

4.4

4.4

-0.2

-4.35

420

MCP

17

16

16.4

-0.4

-2.38

34,300

MCV

11.6

11.2

11.3

-0.3

-2.59

40,930

MHC

10.2

10

10.1

0

0.00

17,380

MPC

12.8

12

12.3

-0.3

-2.38

50,870

NAV

13.3

13.2

13.2

-0.6

-4.35

26,460

NHC

40

39.5

40

-1.2

-2.91

5,200

NKD

33

30.6

33

0.8

2.48

5,610

NSC

27.5

26.5

27.5

0

0.00

10,150

NTL

36.5

34.9

36.5

0.5

1.39

46,310

OPC

57

57

57

-2.5

-4.20

360

PAC

41.5

40

41

1

2.50

16,820

PET

18.6

17.7

18.3

0

0.00

115,570

PGC

12.5

12

12.4

0.4

3.33

47,570

PIT

15.7

15

15.1

-0.6

-3.82

14,970

PJT

13.2

12.6

12.6

-0.6

-4.55

13,780

PMS

19.9

19

19.9

0

0.00

1,430

PNC

11

10.5

11

0

0.00

3,150

PPC

23.4

23

23.4

1.1

4.93

527,240

PRUBF1

4.5

4.3

4.3

-0.2

-4.44

250,780

PVD

80.5

76.5

79.5

-0.5

-0.63

101,280

PVF

24

24

24

24

#DIV/0!

153,460

PVT

20

19

19

-1

-5.00

382,420

RAL

28.5

28.2

28.2

-1.4

-4.73

24,470

REE

26.5

25.4

25.5

-1.2

-4.49

432,050

RHC

18

17.1

18

0

0.00

12,540

RIC

14.2

13

14

0.4

2.94

5,410

SAF

17.9

17.8

17.8

0.1

0.56

7,960

SAM

17.9

16.7

17.8

0.7

4.09

930,230

SAV

12.5

12.2

12.2

-0.6

-4.69

11,980

SBT

9.6

9.3

9.3

-0.3

-3.12

130,630

SC5

26.9

26

26

-0.9

-3.35

45,350

SCD

18

17.1

18

0

0.00

420

SDN

20

20

20

-1

-4.76

600

SFC

35

34.9

35

-1.7

-4.63

1,290

SFI

48.1

45

48.1

2.2

4.79

62,280

SFN

11.8

11.8

11.8

0.2

1.72

10

SGC

13.4

12.6

13.4

0.2

1.52

3,360

SGH

79

79

79

0

0.00

360

SGT

28.9

26.9

28.5

0.2

0.71

41,640

SHC

28.9

28.5

28.7

0.7

2.50

5,820

SJ1

15.7

15.7

15.7

-0.4

-2.48

500

SJD

14.9

14.1

14.1

-0.7

-4.73

24,940

SJS

60

56

58.5

0

0.00

122,800

SMC

22.1

20.9

21.5

-0.5

-2.27

22,790

SSC

23.7

22.2

23.5

0.3

1.29

7,400

SSI

33.3

32.8

33.3

1.5

4.72

1,106,570

ST8

28.7

26.8

26.8

-1.4

-4.96

4,030

STB

22.7

21.4

22

0.2

0.92

4,027,890

SZL

57

54.5

54.5

-2.5

-4.39

19,180

TAC

28.7

26.4

28.5

1.1

4.01

147,030

TCM

9.7

9.5

9.5

-0.5

-5.00

55,800

TCR

12.5

11.7

11.7

-0.5

-4.10

16,650

TCT

91

84.5

89

0.5

0.56

9,330

TDH

31.9

29.3

31.9

1.5

4.93

270,480

TMC

25.7

24.1

25.5

-0.2

-0.78

7,520

TMS

39.5

36.6

39.5

1

2.60

510

TNA

18.9

18

18.9

0.8

4.42

2,020

TNC

11.3

11

11

-0.3

-2.65

20,530

TPC

8.4

8

8.4

0.4

5.00

189,080

TRC

30.5

29.5

30.5

1.4

4.81

40,610

TRI

11.7

10.7

11.3

0.1

0.89

6,080

TS4

10.1

9.7

10

-0.1

-0.99

16,840

TSC

53

50.5

51.5

-1.5

-2.83

61,250

TTC

10.1

9.7

10.1

-0.1

-0.98

24,840

TTF

18.1

17.4

17.5

0.1

0.57

8,070

TTP

21.2

19.3

21

0.7

3.45

83,320

TYA

14.7

14

14

-0.7

-4.76

81,810

UIC

11.9

11.5

11.5

-0.5

-4.17

4,210

UNI

15.7

14.9

14.9

-0.7

-4.49

10,850

VFC

9.9

9.5

9.8

0.2

2.08

33,560

VFMVF1

9.4

9

9.3

-0.1

-1.06

124,840

VFMVF4

5.2

5

5

-0.2

-3.85

62,690

VGP

23

21

22.5

0.5

2.27

1,800

VHC

20.8

19

20.8

0.9

4.52

61,930

VHG

9.2

8.9

9.2

-0.1

-1.08

31,100

VIC

72

71.5

71.5

0

0.00

76,340

VID

10.2

9.8

10.2

-0.1

-0.97

50,850

VIP

13.4

13.4

13.4

-0.7

-4.96

143,090

VIS

25.3

24.3

25.3

-0.2

-0.78

39,460

VKP

8.7

8.3

8.5

0.2

2.41

47,160

VNA

21.5

20.3

21.4

0.1

0.47

63,010

VNE

8

7.6

7.9

-0.1

-1.25

75,190

VNM

81.5

78

81

3

3.85

233,530

VNS

19.2

18.6

18.8

-0.2

-1.05

59,340

VPK

9.3

9.1

9.3

-0.2

-2.11

4,440

VPL

88

87

87.5

2.5

2.94

30,200

VSC

60.5

58

60

0

0.00

12,350

VSG

14.8

14.2

14.2

0

0.00

20,700

VSH

28.4

27.8

28

-1.2

-4.11

59,390

VTA

8.7

8.3

8.7

0

0.00

5,520

VTB

15.5

14.1

15.5

0.7

4.73

10,290

VTC

12.5

12

12.1

0.1

0.83

4,600

VTO

14.6

13.9

14

-0.6

-4.11

438,250

ATPVietnam