Lãi quý III của FPT tăng gần 40%

Monday, October 13, 2008 |

Tập đoàn FPT vừa cho biết, lợi nhuận trước thuế trong quý III đạt 212 tỷ đồng, vượt 3% so với kế hoạch. FPT cũng đang lên kế hoạch phát hành cổ phiếu thưởng từ quỹ thặng dư vốn.

Trao đổi với báo giới chiều nay, ông Bùi Quang Ngọc, Phó tổng giám đốc FPT, cho hay, doanh thu của tập đoàn trong quý III đạt trên 3.770 tỷ đồng, tăng 17,5% so với cùng kỳ và vượt kế hoạch 14,6%. Lãi trước thuế đạt trên 212 tỷ đồng, tăng 38,7% so với cùng kỳ. Lãi cơ bản trên cổ phiếu bình quân trong quý III là 1.280 đồng.

Tính chung từ đầu năm, doanh thu của FPT đạt gần 12.450 tỷ đồng, đạt trên 83% kế hoạch năm. Lãi trước thuế của tập đoàn trong 3 quý đạt 843 tỷ đồng, tăng gần 28%. Tích hợp hệ thống, xuất khẩu phần mềm, viễn thông và phân phối là những lĩnh vực kinh doanh mang lại doanh số lớn cho FPT trong 9 tháng đầu năm.

FPT cho biết vẫn giữ tốc độ tăng trưởng 17,5% trong quý III so với cùng kỳ và dự kiến đạt doanh số 1 tỷ USD vào cuối năm.

Tới đây, FPT cũng sẽ nâng vốn điều lệ thêm 50% thông qua phát hành cổ phiếu thưởng cho các cổ đông hiện hữu từ quỹ thặng dư vốn theo tỷ lệ 2:1. Dự kiến tập đoàn cũng sẽ đổi tên từ Công ty Cổ phần Phát triển Đầu tư Công nghệ FPT thành Công ty Cổ phần FPT.

Hôm nay, FPT cùng lúc thành lập 2 công ty phần mềm tại Mỹ và Australia, lần lượt là FPT USA Corp. và FPT Australasia Ltd. phục vụ phát triển và gia công phần mềm. Trước đó, FPT đã mở các chi nhánh tại Malaysia, châu Âu và Osaka (Nhật). Trong nửa đầu năm nay, lợi nhuận từ phần mềm và dịch vụ chiếm 70% tổng lợi nhuận của FPT.

Hiện FPT nằm trong Top 10 cổ phiếu có giá trị vốn hóa và thanh khoản tốt nhất Việt Nam trong bộ chỉ số S&P Vietnam 10 do Standard & Poor's xây dựng.

VNE

Các chỉ số chính tại Hong Kong, Singapore, Australia hay Anh, Pháp, Đức trong phiên giao dịch hôm nay đều bật mạnh, có nơi tăng tới 9%, sau tuần giao dịch tồi tệ nhất trong lịch sử.

Tại Hong Kong, Hang Seng Index hồi sinh với mức tăng 1.434,33 điểm, tương đương 9,69%, đóng cửa tại 16.231,2 điểm, sau khi mất hơn 7% trong phiên giao dịch cuối tuần trước.

Chứng khoán Australia, Singapore cùng tăng tốc với biên độ trên 5%. Trong khi ở Hàn Quốc và Trung Quốc, tốc độ dao động quanh 3,7%. Chứng khoán Nhật đang nghỉ lễ.

Giao dịch viên tại sàn chứng khoán Philippine (PSE). Đóng cửa phiên giao dịch 13/10, giá cổ phiếu nơi đây tăng trên 1%. Ảnh: Reuters.

Hòa chung âm hưởng lạc quan từ châu Á, chứng khoán châu Âu cũng mở đầu tuần giao dịch mới với nhiều tín hiệu tích cực. FTSE 100 mở cửa với mức tăng 5,6%. Trong khi DAX của Đức và CAC-40 của Pháp lần lượt tăng 6,4% và 7%.

Quyết tâm dập khủng hoảng của các nước lớn là liều thuốc cứu trợ thị trường. Hôm nay, 5 ngân hàng trung ương Mỹ và các nước châu Âu phát đi thông điệp phá băng thị trường tín dụng và tăng cường bơm vốn cho các ngân hàng. Ngân hàng Trung ương Anh, Ngân hàng Trung ương châu Âu và Ngân hàng Quốc gia Thụy Sĩ tuyên bố sẵn sàng cung ứng một lượng vốn không giới hạn cho các tổ chức tài chính. Ngân hàng Trung ương Nhật Bản cũng đang cân nhắc những biện pháp tương tự.

Tại Anh, ba ngân hàng lớn nhất là Royal Bank of Scotland, Lloyds TSB và HBOS công bố kế hoạch tiếp nhận 37 tỷ bảng (tương đương 63 tỷ USD) của Chính phủ nhằm cân đối tài chính. Trong sáng nay, Australia cam kết bảo đảm an toàn cho các khoản tiền gửi tại ngân hàng cùng các tổ chức tín dụng trong vòng 3 năm.

15 nước trong khu vực đồng euro hôm qua cùng cam kết đảm bảo các khoản nợ của ngân hàng mới từ nay tới tới cuối năm 2009. Chính phủ cũng sẽ cứu trợ ngân hàng bằng cách mua cổ phiếu ưu đãi.

Sự hoảng loạn của giới đầu tư đã đẩy thị trường chứng khoán toàn cầu rơi vào tuần giao dịch tồi tệ nhất trong nhiều thập kỷ qua. Điều được trông chờ bây giờ là các chính phủ bắt tay ngay vào việc thực thi các tuyên bố, cam kết của mình.

Tại Mỹ, giới đầu tư đang ngóng chờ Bộ Tài chính mua lại cổ phiếu của các ngân hàng đang lâm nạn. Tuy nhiên, phố Wall đã phát đi những tín hiệu lạc quan đầu tiên. Tại phiên giao dịch kỳ hạn trước khi thị trường chính thức mở cửa hôm nay, chỉ số Dow Jones tăng 331 điểm, tương đương 3,9% lên mức 8.701 điểm. Chỉ số Nasdaq 100 và Standard & Poor's 500 lần lượt tăng 4% và 4,8%.

Chứng khoán lại tiếp tục có phiên giao dịch khởi động tuần mới kém lạc quan khi VN-Index có sức bật khá kém thuyết phục và đã lại để mất điểm phiên thứ 7 liên tiếp.

Một tuần tròn trước đó giảm điểm với những phiên lao dốc, tâm lý thận trọng xuất hiện trong ngày mở đầu tuần mới khi xác định xu hướng thị trường thời điểm này vẫn khá khó khăn trong khi đó suy nghĩ VN-Index vẫn có thể phá vỡ đáy 366 điểm vào cũng không ít đã khiến VN-Index chung cuộc vẫn mất điểm khá mạnh mặc dù đã bớt căng thẳng hơn khi đầu phiên chỉ giảm nhẹ.

Giao dịch đợt 1 hôm nay kết thúc cũng là đợt khớp lệnh mà chỉ số VN-Index mất ít điểm nhất với số điểm giảm chỉ là 1,29 điểm (tương đương giảm 0,34%) xuống còn 377,77 điểm. Giao dịch không có điểm nào đáng chú ý với chỉ gần 3,7 triệu đơn vị được chuyển nhượng với giá trị là 107,44 tỷ đồng.

Bước sang đợt khớp lệnh liên tục, trong những phút đầu màu xanh lại trở lại với VN-Index khi nhiều mã cổ phiếu lớn tăng nhẹ trở lại, nhưng đó cũng là tất cả những gì VN-Index vượt qua được, ngay sau đó không khí trầm lắng lại bao trùm, VN-Index dần dần đi lùi.

Và kết thúc đợt 2, chỉ số này đã lại để mất 7,11 điểm (tương đương gảm 1,88%0 xuống còn 371,95 điểm. Khối lượng giao dịch vẫn ở mức trung bình với hơn 11,2 triệu đơn vị được giao dịch với giá trị là 335 tỷ đồng.

Kết thúc giao dịch đợt khớp lệnh xác định giá đóng cửa, VN-Index chung cuộc tiếp tục giảm 7,39 điểm (tương đương giảm 1,95%) xuống còn 371,67 điểm. Đây cũng là phiên giảm điểm thứ 7 liên tiếp của chỉ số này. Và ngưỡng điểm đóng cửa phiên này cũng chỉ cách cái “đáy” 366,02 điểm hôm 20/6 còn vỏn vẹn 5,65 điểm.

Khối lượng giao dịch qua khớp lệnh của cổ phiếu và chứng chỉ quỹ phiên này tiếp tục giảm xuống với chỉ 12,93 triệu đơn vị được chuyển nhượng, giá trị tương ứng là 373,73 tỷ đồng. Như vậy đã giảm gần 20% về khối lượng và chỉ giảm 10% về giá trị so với giao dịch của phiên trước đó.

Trong tổng số 160 mã cổ phiếu và 4 chứng chỉ quỹ niêm yết trên sàn HOSE, đã có 48 mã tăng giá (chỉ có 8 mã tăng giá trần), 10 mã giữ giá tham chiếu với 2 mã không có giao dịch, và 104 mã giảm giá (trong đó có 58 mã giảm sàn).

2 cổ phiếu không có giao dịch là DPC của Nhựa Đà Nẵng và tiếp tục là FPC của CTCP Full Power.

Nhóm 10 cổ phiếu có mức vốn hoá lớn trên sàn có 3 mã tăng giá nhẹ là STB của Sacombank (+300 đồng lên 20.500 đồng/cp), VIC của Vincom (+1.500 đồng lên 82.000 đồng/cp), và VPL của Du lịch thương mại Vinpearl (+1.500 đồng lên 91.500 đồng/cp).

Các mã nhóm này giảm giá gồm 4 mã giảm sàn là: FPT của Tập đoàn FPT (-3.500 đồng/cp xuống 68.500 đồng/cp), HPG của Hoà Phát (-2.000 đồng xuống 38.900đồng/cp), SSI của Chứng khoán Sài Gòn (-2.000 đồng/cp) và VNM của Vinamilk (-4.000 đồng xuống 85.500 đồng/cp).

Về khối lượng khớp lệnh của từng mã, STB vẫn đứng đầu (1,66 triệu cp). Các mã sau đó không mã nào đạt trên 1 triệu đơn vị như: HPG (0,8 triệu cp), SAM của Sacom (-0,62 triệu cp), VTO của Vận tải Xăng dầu VITACO (0,55 triệu cp), DPM của Đạm Phú Mỹ (0,52 triệu cp)...

Chi tiết giao dịch ngày 13/10:
(Đơn vị giá: 1.000đ, Đơn vị KL: 1 CP)

Mã CK

Giá cao nhất

Giá thấp nhất

Giá đóng cửa

Thay đổi

%Thay đổi

Khối lượng

ABT

31.6

30.4

30.4

0

0.00

7,770

ACL

34.5

33.1

33.1

-1.4

-4.06

12,000

AGF

21.8

20.9

20.9

-1

-4.57

55,250

ALP

11.9

11.3

11.3

-0.4

-3.42

38,960

ALT

30.5

27.9

27.9

-1.4

-4.78

1,600

ANV

31

29.7

31

-0.2

-0.64

65,510

ASP

12

11.5

11.8

0.3

2.61

33,680

BBC

18

17.1

17.1

-0.9

-5.00

51,670

BBT

5.5

5.5

5.5

-0.2

-3.51

21,840

BHS

15.5

14.8

15.4

0.1

0.65

5,590

BMC

98

90

90

-4.5

-4.76

79,410

BMI

21.6

21.5

21.5

-1.1

-4.87

32,650

BMP

35.9

35.9

35.9

-1.8

-4.77

23,950

BPC

13.3

13.3

13.3

0.3

2.31

1,000

BT6

55.5

53

55.5

0.5

0.91

5,510

BTC

31.5

29.5

31.5

0.5

1.61

270

CAN

12

11.6

11.8

-0.2

-1.67

22,460

CII

25.8

24.6

24.6

-1.2

-4.65

126,900

CLC

17.5

16.7

17

0.3

1.80

4,000

CNT

16.5

15.7

15.7

-0.8

-4.85

39,180

COM

31.9

29.4

29.4

-1

-3.29

11,620

CYC

14.9

13.6

13.7

-0.6

-4.20

11,210

DCC

13

11.8

12

-0.4

-3.23

15,630

DCL

55.5

50.5

50.5

-2.5

-4.72

25,760

DCT

11

10

10.8

0.3

2.86

54,580

DDM

19.4

18.1

18.1

-0.9

-4.74

102,850

DHA

19.5

19

19

-0.9

-4.52

115,940

DHG

119

114

114

-6

-5.00

15,960

DIC

15.5

15

15.5

0.5

3.33

48,170

DMC

56.5

53.5

53.5

-2.5

-4.46

5,440

DNP

11.2

10.3

10.5

-0.2

-1.87

16,250

DPC




0

DPM

51

49.2

49.2

-0.7

-1.40

522,160

DPR

58

56

56

-1.5

-2.61

61,530

DQC

24

22.3

22.3

-1.1

-4.70

73,350

DRC

31

29.5

29.5

-0.8

-2.64

7,120

DTT

11.4

11.2

11.4

0

0.00

2,800

DXP

26.1

24.9

26

1.1

4.42

37,640

DXV

9.3

8.7

9

0.1

1.12

18,430

FBT

17

16.4

16.4

-0.8

-4.65

151,160

FMC

12.6

11.8

12.6

0.2

1.61

24,980

FPC




0

FPT

74

68.5

68.5

-3.5

-4.86

445,480

GIL

16.6

15.7

15.8

-0.2

-1.25

20,360

GMC

17.7

16.1

16.1

-0.8

-4.73

8,070

GMD

45

41.2

41.2

-2.1

-4.85

46,850

GTA

12

11.6

12

-0.1

-0.83

3,460

HAP

22.3

21.1

21.1

-1.1

-4.95

137,640

HAS

13.5

12.6

12.6

-0.3

-2.33

9,820

HAX

20.7

20.5

20.5

-1

-4.65

9,380

HBC

18.3

18.2

18.2

-0.9

-4.71

63,310

HBD

12

11.4

11.4

-0.6

-5.00

7,640

HDC

24.7

23.8

23.8

-0.9

-3.64

36,400

HMC

18.4

17

17.8

0

0.00

43,110

HPG

40.9

38.9

38.9

-2

-4.89

805,920

HRC

43

40.7

40.7

-2.1

-4.91

37,970

HSI

16.9

16.3

16.9

-0.2

-1.17

4,660

HT1

14.3

14.1

14.3

0.6

4.38

82,140

HTV

11

10.6

10.6

-0.4

-3.64

60,200

ICF

10

9.6

9.8

0.1

1.03

27,250

IFS

10.7

10

10.3

0

0.00

4,860

IMP

87

84

84

-3

-3.45

4,260

ITA

34.2

34.2

34.2

-1.7

-4.74

26,890

KDC

37.5

37.4

37.4

-1.9

-4.83

106,080

KHA

12.9

12

12

-0.3

-2.44

39,890

KHP

12.9

12.2

12.4

0

0.00

51,870

KMR

9.7

9.2

9.2

-0.4

-4.17

51,440

L10

13

12.5

12.5

-0.5

-3.85

3,590

LAF

16.9

15.5

15.5

-0.8

-4.91

126,770

LBM

23

21.7

21.7

-1.1

-4.82

93,690

LGC

23.4

21.3

23.4

1

4.46

23,380

LSS

15.1

14.7

14.7

-0.2

-1.34

6,000

MAFPF1

4.7

4.4

4.7

0.1

2.17

18,460

MCP

13.8

13.2

13.3

0.1

0.76

8,080

MCV

12.8

12

12.5

0.1

0.81

55,790

MHC

11.6

11

11

-0.1

-0.90

37,680

MPC

12.1

11.5

11.5

-0.6

-4.96

189,060

NAV

14.4

13.8

14.2

0.2

1.43

8,310

NHC

41.5

39

40

0.1

0.25

13,030

NKD

39.8

39.7

39.7

-2

-4.80

11,090

NSC

27.5

26.5

27.4

1.2

4.58

20,510

NTL

38.5

36.1

36.1

-1.8

-4.75

113,430

PAC

43

41.2

41.9

-0.6

-1.41

34,970

PET

20

18.3

18.4

-0.8

-4.17

118,560

PGC

12.3

11.8

12.1

0.1

0.83

32,770

PIT

17.1

16.3

16.3

0

0.00

16,870

PJT

13.6

12.5

13.2

0.2

1.54

11,360

PMS

19.2

18.3

18.3

-0.9

-4.69

690

PNC

11.4

10.7

10.7

-0.5

-4.46

8,690

PPC

27.5

26.1

26.5

-0.1

-0.38

313,550

PRUBF1

4.2

4

4.1

0.1

2.50

158,180

PVD

80.5

78

78

0

0.00

130,030

PVT

19.1

17.5

18.1

-0.2

-1.09

296,530

RAL

34.7

32

32

-1.3

-3.90

3,370

REE

31.1

28.7

28.7

-1.5

-4.97

282,950

RHC

21

20.5

20.5

0.5

2.50

670

RIC

15.8

15.5

15.5

-0.8

-4.91

8,300

SAF

19.6

19.6

19.6

0.9

4.81

10

SAM

19

17.8

17.8

-0.9

-4.81

625,440

SAV

13.4

13

13

-0.5

-3.70

6,760

SBT

9.9

9.5

9.7

0.2

2.11

171,120

SC5

29.5

27.3

27.5

-0.7

-2.48

58,020

SCD

17.5

16.7

17.3

-0.2

-1.14

820

SDN

19

19

19

-0.9

-4.52

350

SFC

37.8

34.4

37.8

1.8

5.00

2,700

SFI

50

45.6

45.6

-2.4

-5.00

46,190

SFN

11.8

11.3

11.3

-0.5

-4.24

1,770

SGC

13.2

12.4

12.4

-0.5

-3.88

10,720

SGH

83

83

83

-2

-2.35

210

SGT

27.4

26.2

26.2

-1.3

-4.73

45,300

SHC

41.8

39.8

39.8

-2

-4.78

22,530

SJ1

16

15.5

15.5

-0.5

-3.13

6,270

SJD

15.5

14.8

15.2

0.1

0.66

8,310

SJS

71

67.5

67.5

-3.5

-4.93

163,910

SMC

25

23.8

23.8

-1.2

-4.80

50,880

SSC

19.5

18.6

19

-0.4

-2.06

36,510

SSI

38.9

38.9

38.9

-2

-4.89

443,180

ST8

28

27

27.5

-0.1

-0.36

10,220

STB

20.9

20.2

20.5

0.3

1.49

1,661,310

SZL

48.9

46.6

46.8

0.2

0.43

16,150

TAC

40.4

38.4

38.4

-2

-4.95

104,830

TCM

11

10.2

10.3

-0.4

-3.74

79,280

TCR

11.2

10.6

11.2

0.1

0.90

33,280

TCT

89

81

87.5

2.5

2.94

14,730

TDH

32.7

30.6

30.6

-1.6

-4.97

57,440

TMC

30.1

27.4

27.4

-1.4

-4.86

8,770

TMS

38.2

37.9

38.2

0.2

0.53

6,550

TNA

18.5

18

18.5

0.2

1.09

1,670

TNC

13.1

12.6

13.1

0.6

4.80

59,440

TPC

8.6

8.4

8.4

-0.4

-4.55

100,570

TRC

51

47

47

-2

-4.08

126,030

TRI

13.2

13.2

13.2

-0.6

-4.35

24,030

TS4

11.5

11.4

11.4

-0.5

-4.20

64,290

TSC

54.5

49.9

50

-2.5

-4.76

30,440

TTC

10.2

9.5

10.2

0.4

4.08

8,830

TTF

20.5

20

20.5

0.5

2.50

4,790

TTP

19

17.5

19

0.9

4.97

108,650

TYA

14.8

13.6

14.8

0.6

4.23

53,880

UIC

11.7

11.6

11.6

-0.1

-0.85

7,590

UNI

16

15.7

15.7

-0.8

-4.85

50,220

VFC

11

10

10

-0.5

-4.76

46,550

VFMVF1

9.7

9.2

9.4

-0.1

-1.05

168,020

VFMVF4

5.6

5.4

5.4

-0.2

-3.57

65,250

VGP

22.2

22.2

22.2

1

4.72

1,940

VHC

23.1

22

22.3

-0.7

-3.04

14,000

VHG

11.9

11.2

11.2

-0.5

-4.27

23,700

VIC

84

80.5

82

1.5

1.86

112,380

VID

10.9

10.3

10.5

0

0.00

31,540

VIP

14.5

13.9

14.3

0.4

2.88

260,660

VIS

22.1

21.1

22.1

1

4.74

108,170

VKP

9.7

9.2

9.2

-0.4

-4.17

49,780

VNA

31.7

28.9

29

-1.4

-4.61

53,720

VNE

10.5

9.9

9.9

-0.2

-1.98

140,500

VNM

87

85.5

85.5

-4

-4.47

199,420

VNS

20.4

19.5

20.4

0.9

4.62

103,330

VPK

10

9.7

9.9

-0.2

-1.98

4,500

VPL

93

90

91.5

1.5

1.67

93,500

VSC

67.5

64

64

-1

-1.54

10,180

VSG

14.4

13.7

14.4

0

0.00

9,550

VSH

28.2

27

27

0

0.00

285,390

VTA

9.5

9.1

9.5

0.1

1.06

720

VTB

16.5

15.5

16.5

0.2

1.23

11,810

VTC

12

12

12

-0.4

-3.23

2,110

VTO

14.7

14.1

14.7

0.6

4.26

547,550

ATPVietnam