Chứng khoán thế giới tăng điểm phiên đầu tuần

Tuesday, December 9, 2008 |

Bình luận của tân Tổng thống Obama về triển vọng kinh tế Mỹ cũng như diễn biến mới về việc giải cứu các nhà sản xuất ôtô là động lực cho chứng khoán Mỹ lên điểm trong phiên đầu tuần 8/12.

Chỉ số công nghiệp Dow Jones tiến thêm 3,46% lên thành 8.934,18 điểm. Chỉ số Nasdaq được cộng thêm 4,14% đóng cửa tại 1.514,74 điểm. Chỉ số Standard & Poor 500 của các doanh nghiệp vừa và nhỏ chốt tại 909,7 cao hơn phiên trước 3,84%.

Vừa qua, Tổng thống Obama đã trình bày kế hoạch tạo 2,5 triệu việc làm vào năm 2011 cho nước Mỹ thông qua các công trình xây dựng cầu, đường, làm mới các trường học, và xây dựng các công trình công cộng khác.

Trước đó, vào cuối tuần qua, hãng tin NBC dẫn lời ông Obama rằng, khủng hoảng tại chính tại Mỹ đang ngày càng tồi tệ và ưu tiên hàng đầu lúc này là cần tạo ra một gói giải pháp đủ mạnh, ngay cả khi giải pháp này có thể đi đôi với thâm hụt ngân sách trong ngắn hạn, để kích thích nền kinh tế vượt qua khó khăn.

Ngoài ra, Nhà Trắng cho hay sẽ sớm hỗ trợ cho các nhà sản xuất ôtô. Chính quyền của Tổng thống Bush đang xem xét kế hoạch của Quốc hội, trong đó ba hãng Genenral Motors, Ford, và Chrysler sẽ được vay từ 15 tỷ đến 17 tỷ đôla vào khoảng 15/12. Trước tin tốt trên, cổ phiếu của GM lên 20,8% và Ford tiến thêm được 24%.

Chai lì trước tin xấu và hồ hởi trước tin tốt là hình ảnh tiêu biểu cho phố Wall trong những phiên giao dịch gần đây. Ảnh: Jamd.com.
Chai lì trước tin xấu và hồ hởi trước tin tốt là hình ảnh tiêu biểu cho phố Wall trong những phiên giao dịch gần đây. Ảnh: Jamd.com.

Khoản tiền trên là thấp hơn nhiều so với 34 tỷ đôla mà ba hãng trên yêu cầu. Tuy nhiên, theo các nhà phân tích, 15 tỷ đôla là đủ để các công ty sống sót hết năm nay hoặc đầu năm sau. Từ nay đến đó, Chính quyền mới của ông Obama sẽ có thời gian để đề ra những phương án dài hạn hơn để vực dậy ngành công nghiệp sản xuất xe hơi.

Bên cạnh những tin tốt trên, thị trường lao động tiếp tục trở nên ảm đạm khi Tập đoàn Dow Chemical cho hay sẽ cắt giảm 5.000 việc làm, chiếm khoảng 11% tổng số nhân viên. Hãng cũng sẽ ngừng triển khai 20 dự án và nhiều kế hoạch kinh doanh do suy thoái kinh tế. Một thành phần khác của chỉ số Dow Jones là Tập đoàn 3M nhận định triển vọng lợi nhuận cả năm 2008 và 2009 đều sẽ thấp hơn dự đoán. Công ty này dự định sẽ loại bớt 1.800 nhân công. Để cắt giảm chi phí, nhà sản xuất bia Anheuser-Busch cũng có kế hoạch cho 1.400 nhân viên nghỉ việc vào cuối năm.

Tập đoàn giao nhận FedEx, hãng được coi là biểu tượng của tính năng động của Mỹ, cho biết lợi nhuận năm tới sẽ thấp hơn dự tính do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế.

Theo ông Ken Kam, Quản lý quỹ tại Masters 100 Fund, thị trường Mỹ đang trong giai đoạn rất phập phù, bất kỳ một tin dù tốt hay xấu đều ngay lập tức được phản ánh vào giá cổ phiếu. Phiên tăng vừa qua có được là nhờ niềm hy vọng của nhà đầu tư rằng những điều tệ hại nhất đã qua đi.

Tại Sở Giao dịch New York, dầu thô hồi phục 2,9 đôla, kết thúc ngày giao dịch tại 43,71 đôla một thùng.

Nhà đầu tư tại châu Âu cũng có một phiên giao dịch thành công khi cả ba chỉ số chính tại Anh, Đức và Pháp đồng loạt khởi sắc với sự nổi bật của nhóm cổ phiếu khai mỏ, ngân hàng, và dầu khí. Kết thúc phiên, chỉ số FTSE 100 của Anh bật mạnh 6,19%. Chỉ số DAX của Đức nhảy vọt 7,63%. Chứng khoán Pháp cũng không thua kém khi chỉ số chính CAC 40 được cộng tới 8,68%.

Không nằm ngoài không khí lạc quan của phố Wall và châu Âu, giá cổ phiếu tại thị trường châu Á cũng có những bước tiến khá ấn tượng. Chỉ số Nikkei 225 của Nhật vượt dốc 5,2%. Chỉ số Hang Seng của Hong Kong đóng cửa cao hơn tham chiếu 7,93%. Chỉ số KOSPI của Hàn Quốc khởi sắc 7,48%. Tại Trung Quốc, chỉ số Shanghai Composite đón chào tuần mới với mức tăng 3,57%.

Tính tới 10h sáng nay 9/12, chỉ số Nikkei 225 tăng 0,48%, Hang Seng tăng 0,04%, KOSPI giảm 0,23%, chỉ số Shanghai Composite đứng nguyên tại tham chiếu.

Gây thất vọng sau đợt một và những phút đầu đợt hai, Vn-Index đã bất ngờ đảo chiều để rồi đóng cửa với mức tăng 1,6%. Dù được hưởng niềm vui lên điểm nhưng nhà đầu tư vẫn có lý do để lo lắng khi lượng giao dịch tiếp tục ở mức thấp.

Diễn biến tích cực từ thị trường thế giới, đặc biệt là chứng khoán châu Á, vào đầu tuần có thể coi là tiền đề cho Vn-Index đảo chiều trong ngày hôm nay. Tuy nhiên, phiên tăng điểm đến với nhà đầu tư không dễ dàng khi chỉ số chính tiếp tục giảm 1,08%, tương đương 3,13 điểm, sau đợt mở cửa. Thị trường xác lập đáy mới tại 285,56 điểm. Số cổ phiếu trao tay chỉ vỏn vẹn 1,66 triệu, giá trị 42,8 tỷ đồng.

Nhóm các công ty ảnh hưởng nhất tới HOSE như SSI, STB, SJS, PVD, VNM, KDC và VPL sau đợt một đều đi xuống. Trong danh sách các cổ phiếu dẫn dắt, chỉ có dưới 6 mã không mất điểm sau đợt một. Đáng chú ý trong đó có FPT, Công ty vừa làm rõ tin đồn về việc thay đổi Chủ tịch Hội đồng Quản trị, cùng với REE nằm trong số hiếm các blue chip tăng điểm. Những đại gia khác như DPM, HPG, ITA, hay VSH đứng tại giá tham chiếu.

Diễn biến trong những phút đầu đợt hai xấu đi đôi chút khi số điểm trừ của Vn-Index tiếp tục bị đội dày thêm. Tuy nhiên, giao dịch thưa thớt trong khoảng thời gian này hứa hẹn thị trường sẽ đảo chiếu khá nhanh nếu có thay đổi tương đối giữa cán cân cung cầu. Nhận định trên của một nhà đầu tư tại Công ty Chứng khoán Gia Quyền đã được kiểm chứng khi Vn-Index trong khoảng 30 phút cuối của đợt hai bên mua bắt đầu đẩy mạnh mua vào.

Cầu quay lại với chứng khoán đã tạo hiệu ứng tích cực lên toàn sàn. Dù vẫn còn sự phân hóa khá mạnh giữa các cổ phiếu nhưng sắc xanh, trong những phút cuối đợt khớp lệnh liên tục, đã dẫn chiếm thế chủ đạo trên bảng điện tử. Xu hướng tăng mua giúp Vn-Index hồi lại số điểm đã mất để rồi bứt phá lên trên giá tham chiếu.

Thị trường lên điểm nhưng khối lượng giao dịch tiếp tục ở mức thấp. Ảnh: Hoàng Hà.
Thị trường lên điểm nhưng khối lượng giao dịch tiếp tục ở mức thấp và là phiên thứ 6 liên tiếp tổng giao dịch nằm dưới 10 triệu chứng khoán. Ảnh: Hoàng Hà.

Kết thúc đợt hai, hàn thử biểu của chứng khoán Việt Nam đóng cửa tại 290,95 điểm, tăng 2,26 điểm, tương ứng 0,78%. Lượng cổ phiếu được khớp sau đợt hai đạt 7,25 triệu, tương ứng 168 tỷ đồng.

Tâm lý hưng phấn của các nhà đầu tư được duy trì trong đợt ba đã đẩy chỉ số chính của sàn HOSE lên mức 293,3 điểm, leo thêm 5,61 điểm, tương ứng 1,59%. Như vậy, chênh lệch giữa hai đợt đóng và mở cửa lên tới 7,74 điểm. Tương ứng với số điểm trên, mức lãi trung bình của các nhà đầu tư nếu mua cổ phiếu từ đợt một đạt 2,67%.

Tổng giao dịch toàn sàn đạt 9,373 triệu chứng khoán, giá trị giao dịch 313,3 tỷ đồng. Trong đó, giao dịch thỏa thuận chiếm 601 nghìn cổ phiếu, giá trị 6,7 tỷ đồng.

Đây đã là lần thứ sáu liên tiếp khối lượng giao dịch của thị trường thấp hơn 10 triệu cổ phiếu. Dẫu đi lên nhưng lực cầu quay lại với chứng khoán vẫn thấp chưa thể khiến nhà đầu tư yên tâm về triển vọng của thị trường trong thời gian tới.

Toàn sàn có 77 cổ phiếu tăng điểm, 31 mã đứng giá, 64 mã giảm giá. Các cổ phiếu DPM, HPG, ITA, PPC được các nhà đầu tư nước ngoài săn đón nhiều nhất. Tại những mã trên, giao dịch của khối ngoại chiếm tỷ trọng từ 30 đến 40%. Cầu ngoại chuyển biến theo chiều hướng tốt đóng góp đáng kể cho phiên tăng của thị trường trong phiên sáng nay.

Tại sàn Hà Nội, chỉ số HaSTC-Index đóng cửa tại 103,11 điểm, cao hơn tham chiếu 3 điểm, ngang mức tăng 3%. Lượng thực hiện trên toàn sàn Hà Nội đạt 6,02 triệu, giá trị 140,16 tỷ đồng.

Kết thúc phiên giao dịch ngày 9/12, màu xanh đã quay trở lại khi VN-Index nỗ lực đi lên dù vẫn tiếp tục giảm điểm ngay khi mở cửa.

Đà giảm điểm mạnh của phiên giao dịch hôm qua đã khiến VN-Index kết thúc giao dịch đợt 1 mất thêm 3,13 điểm (tương đương giảm 1,08%) xuống còn 285,56 điểm. Khối lượng giao dịch đạt hơn 1,66 triệu đơn vị và giá trị tương đương là 42,844 tỷ đồng.

Đà giảm điểm này được hãm lại nhờ những những thông tin tích cực từ thị trường chứng khoán toàn cầu khi khắp nơi đều tăng điểm mạnh mẽ. Cụ thể, chứng khoán Mỹ trong phiên giao dịch đêm qua các chỉ số cơ bản đều tăng trên dưới 4%, Châu Âu với mức tăng ấn tượng hơn là trên 6% còn tại Châu Á lúc này cũng đang tăng điểm.

Sang đợt khớp lệnh liên tục, diễn biến có phần tích cực hơn khi VN-Index giảm dần số điểm để mất trong đợt 1, tuy vậy giao dịch vẫn chưa thực sự nổi bật khi những tính toán thăm dò thị trường vẫn là chủ yếu trong giai đoạn này.

Nhờ nhiều mã cổ phiếu Blue-chips tăng giá trở lại, VN-Index kết thúc đợt 2 cũng đã chính thức đảo chiều tăng 2,26 điểm (tương đương tăng 0,78%) lên 290,95 điểm. Tổng khối lượng giao dịch sau đợt này đạt 168 tỷ đồng.

Những nỗ lực cuối phiên, VN-Index tiếp tục nâng cao số điểm có được và chung cuộc chỉ số VN-Index tăng 4,61 điểm (tương đương tăng 1,6%) lên 293,3 điểm. Dù tăng điểm trở lại nhưng dường như ngưỡng 300 điểm lại vẫn còn khá xa khi giao dịch lại giảm sút dù thị trường hồi phục.

Tổng khối lượng giao dịch của cổ phiếu và chứng chỉ quỹ phiên này đạt hơn 8,77 triệu đơn vị với giá trị tương đương 206,6 tỷ đồng. Như vậy, khối lượng phiên này giảm 15% và giá trị giảm 11% so với phiên hôm qua.

Số chứng khoán tăng giá đã chiếm nhiều hơn trong phiên này khi trong tổng số 168 mã cổ phiếu và 4 chứng chỉ quỹ niêm yết, đã có 77 mã tăng giá (trong đó 14 mã tăng giá trần), 64 mã giảm giá (trong đó 32 mã giảm giá sàn) và 31 mã đứng giá.

Nhóm 10 cổ phiếu có mức vốn hoá lớn trên sàn hỗ trợ tích cực cho mức tăng điểm phiên này khi không mã nào giảm giá, trừ 3 mã giữ mức tham chiếu là DPM của Đạm Phú Mỹ, PPC của Nhiệt điện Phả Lại và VPL của Du lịch Thương mại Vinpearl, các mã còn lại đều tăng giá trong đó VNM của Vinamilk tăng kịch trần (+3.500 đồng lên 75.500 đồng/cp).

Nhiều cổ phiếu lớn khác cũng tăng giá như: REE của Cơ điện Lạnh, VSH của Thuỷ điện Vĩnh Sơn-Sông Hinh, SAM của Sacom, TDH của Nhà Thủ Đức, SSI của Chứng khoán Sài Gòn, , BMI của Bảo Minh, DQC của Điện Quang...

Trong khi đó, DHG của Dược Hậu Giang chịu mức giảm giá mạnh nhất là 4.000 đồng, 2 mã sau đó giảm 3.000 đồng là IMP của Imexpharm và SGH của Saigon Hotel, NSC của Giống cây trồng miền Nam giảm 2.500 đồng....

Các cổ phiếu vốn hoá lớn chiếm 8 vị trí đầu trong nhóm những cổ phiếu có lượng giao dịch nhiều nhất. Cụ thể, cổ phiếu STB của Sacombank vẫn duy trì thanh khoản cao nhất thị trường (1,72 triệu cp), sau đó là SSI (0,6 triệu cp), DPM (0,52 triệu cp), FPT của Tập đoàn FPT (0,37 triệu cp), PPC (0,34 triệu cp), HPG (0,32 triệu cp), PVF (0,29 triệu cp).

Chi tiết giao dịch ngày 9/12:
(Đơn vị giá: 1.000đ; Đơn vị KL: 1CP)

Mã CK

Giá cao nhất

Giá thấp nhất

Giá đóng cửa

Thay đổi

%Thay đổi

Khối lượng

ABT

24.8

24.4

24.6

0.1

0.41

2,670

ACL

21.2

20

20

-0.9

-4.31

8,410

AGF

15.2

14.3

14.6

-0.3

-2.01

22,600

ALP

8.4

8.3

8.4

0.1

1.20

8,220

ALT

21.9

21

21.8

0.8

3.81

1,600

ANV

18

17.4

18

0.6

3.45

45,560

ASP

11.3

10.8

11

0.1

0.92

32,930

BAS

11.8

11.3

11.3

-0.5

-4.24

50

BBC

13.8

13

13.6

0.4

3.03

25,260

BBT

4.7

4.7

4.7

-0.1

-2.08

5,040

BHS

15

14.3

14.6

0

0.00

12,760

BMC

69

66

67

1

1.52

19,170

BMI

15

14.3

14.9

0.6

4.20

5,460

BMP

30

28.4

30

1

3.45

1,010

BPC

10.1

9.4

9.4

-0.4

-4.08

10,140

BT6

32.4

32.4

32.4

1.5

4.85

770

BTC

22

22

22

0.1

0.46

1,400

CAN

10

10

10

0

0.00

3,820

CII

25.5

25

25

0.1

0.40

26,990

CLC

15.2

14.7

14.7

0.1

0.68

500

CNT

11

10.6

10.6

-0.2

-1.85

7,180

COM

34.8

33.5

34.8

0

0.00

8,810

CYC

9.5

9.3

9.4

0.2

2.17

9,600

DCC

9

8.7

8.7

0.1

1.16

14,630

DCL

25.9

24

24.6

-0.3

-1.20

40,850

DCT

9

8.8

8.8

0

0.00

18,840

DDM

12.2

11.4

11.4

-0.5

-4.20

34,340

DHA

17.9

17

17.9

0.7

4.07

5,800

DHG

116

112

112

-4

-3.45

57,630

DIC

14.4

13.6

14.4

0.6

4.35

7,900

DMC

51.5

48.6

51.5

0.5

0.98

8,400

DNP

9.5

9.1

9.1

-0.4

-4.21

11,350

DPC

10.4

10.4

10.4

-0.5

-4.59

500

DPM

32.9

32.5

32.6

0

0.00

519,210

DPR

31

29.6

31

0

0.00

21,560

DQC

15.9

15.5

15.5

0.1

0.65

25,790

DRC

16

15.3

15.8

0

0.00

7,910

DTT

10.1

10.1

10.1

0

0.00

10

DXP

18.9

17.7

18.3

0.2

1.10

4,750

DXV

6.4

6

6

-0.3

-4.76

9,980

FBT

16

14.9

14.9

-0.7

-4.49

9,100

FMC

11

11

11

0

0.00

12,110

FPC

18.6

18.6

18.6

-0.9

-4.62

10

FPT

48.8

46.5

48.7

2.2

4.73

365,650

GIL

13.6

13.4

13.6

0.1

0.74

38,660

GMC

14

13.6

14

-0.3

-2.10

6,020

GMD

27.5

25

25.2

-1

-3.82

141,100

GTA

8.4

7.7

7.7

-0.3

-3.75

2,100

HAP

14.9

14

14.7

0.1

0.68

33,290

HAS

11

10.8

11

0.2

1.85

1,270

HAX

13.9

13.6

13.9

0.1

0.72

1,000

HBC

14.5

14.4

14.5

0.2

1.40

16,690

HBD

10.4

10

10

-0.4

-3.85

1,560

HDC

23.3

22.1

22.8

0.3

1.33

12,060

HLA

13.2

13

13

0.1

0.78

1,410

HMC

12.2

11.4

11.4

-0.3

-2.56

6,590

HPG

28

26.9

27.8

0.9

3.35

318,860

HRC

30.5

29.2

30.3

1.1

3.77

19,930

HSG

28.9

28.9

28.9

-1.5

-4.93

10

HSI

10.8

10.8

10.8

0

0.00

1,600

HT1

12

11.5

11.6

0.1

0.87

12,210

HTV

8.4

7.6

7.6

-0.4

-5.00

8,890

ICF

7.5

7

7

-0.3

-4.11

7,710

IFS

7.9

7.6

7.9

0

0.00

2,400

IMP

57.5

57

57

-3

-5.00

4,050

ITA

26.5

25.9

26

0

0.00

142,890

KDC

27.7

26.3

27.1

-0.1

-0.37

61,280

KHA

11.3

11

11.2

0.4

3.70

42,230

KHP

9.7

9.4

9.4

-0.1

-1.05

12,060

KMR

6

5.8

5.9

0

0.00

18,340

KSH

13.2

12.8

13.2

0.6

4.76

40,750

L10

10.8

10.3

10.3

-0.5

-4.63

3,220

LAF

9.8

9.2

9.2

-0.4

-4.17

32,140

LBM

14.6

14.1

14.2

-0.1

-0.70

26,260

LCG

26.8

26.8

26.8

1.2

4.69

17,600

LGC

20.1

18.3

18.3

-0.9

-4.69

15,520

LSS

14

13.2

13.7

0.2

1.48

27,810

MAFPF1

3.8

3.7

3.8

0

0.00

39,670

MCP

13.5

12.4

13.5

0.6

4.65

2,600

MCV

8.9

8.4

8.4

-0.2

-2.33

22,290

MHC

8.5

8

8

-0.4

-4.76

54,080

MPC

11

10.4

11

0.2

1.85

60,650

NAV

10.2

9.7

9.7

-0.5

-4.90

13,920

NHC

29.5

27.5

29.4

0.5

1.73

4,000

NKD

25.9

25.5

25.9

0.4

1.57

2,400

NSC

22.9

20.9

20.9

-2.5

-10.68

9,640

NTL

32

30.3

30.3

-1.4

-4.42

14,370

OPC

21

20.8

21

1

5.00

4,810

PAC

34.3

32.5

34.3

0.3

0.88

13,030

PET

13.9

13.3

13.9

0.6

4.51

101,560

PGC

10

9.7

9.7

0

0.00

18,190

PIT

12.7

12.2

12.6

0.4

3.28

11,340

PJT

11.1

10.9

10.9

-0.5

-4.39

31,440

PMS

17.5

17.5

17.5

-0.5

-2.78

1,000

PNC

9.1

8.8

9.1

0

0.00

9,370

PPC

16.7

15.8

16.2

0

0.00

339,950

PRUBF1

4

3.9

4

0.1

2.56

135,760

PVD

66.5

62.5

66.5

2.5

3.91

178,820

PVF

15.8

15

15.7

0.4

2.61

286,560

PVT

15.5

14.6

15.5

0.5

3.33

146,640

RAL

22.4

20.9

21

-0.7

-3.23

24,190

REE

22.5

21.7

22.5

0.9

4.17

250,600

RHC

19.9

19

19.9

0.4

2.05

3,720

RIC

17

16.2

16.5

0.3

1.85

10,100

SAF

22.4

21.4

22.3

0.8

3.72

14,930

SAM

14.4

13.8

14.3

0.4

2.88

184,810

SAV

13.3

12.8

13

0

0.00

7,840

SBT

8

7.7

7.7

-0.2

-2.53

61,030

SC5

19.9

18.8

18.9

-0.8

-4.06

21,380

SCD

14

14

14

0

0.00

40

SDN

17.5

17.1

17.5

-0.5

-2.78

490

SFC

48.5

45.2

48

0.5

1.05

10,970

SFI

34.5

33.3

34

0.1

0.29

9,970

SFN

9.6

9.6

9.6

-0.3

-3.03

830

SGC

10

9.5

9.5

-0.5

-5.00

3,020

SGH

58.5

58.5

58.5

-3

-4.88

220

SGT

22.8

22.8

22.8

1

4.59

670

SHC

18.5

17.9

17.9

-0.9

-4.79

13,510

SJ1

11.4

10.9

10.9

-0.5

-4.39

1,500

SJD

13.8

13.7

13.8

0.1

0.73

4,060

SJS

44.6

42

43.5

-0.3

-0.68

273,610

SMC

19.5

18.5

19

-0.1

-0.52

18,550

SSC

18.4

18.4

18.4

0

0.00

1,200

SSI

27.4

26

26.7

0.1

0.38

598,240

ST8

18.8

17.3

18.8

0.7

3.87

1,680

STB

18.6

18

18.4

0.2

1.10

1,717,550

SZL

57

52.5

52.5

-2

-3.67

4,000

TAC

21.4

20.7

20.8

0.1

0.48

39,280

TCM

9

8.7

8.9

0.1

1.14

28,250

TCR

8.2

7.9

8.2

0

0.00

3,840

TCT

75

74

75

1.5

2.04

370

TDH

27.2

26.1

27.1

1.1

4.23

75,010

TMC

19.2

19.1

19.1

-0.4

-2.05

4,610

TMS

33.6

33.5

33.5

-1.7

-4.83

1,680

TNA

16.8

16

16.8

0.5

3.07

1,510

TNC

9.5

9.1

9.3

0

0.00

19,330

TPC

7.8

7.3

7.3

-0.3

-3.95

36,620

TRA

42

40.3

40.3

-2.1

-4.95

35,160

TRC

23.4

21.6

22.7

0

0.00

67,230

TRI

7.5

7

7

-0.3

-4.11

25,420

TS4

7.6

7.4

7.4

-0.1

-1.33

12,990

TSC

35.5

34

34.4

-0.9

-2.55

42,960

TTC

8.9

8.3

8.3

-0.4

-4.60

12,200

TTF

11.6

11.2

11.6

0.5

4.50

6,900

TTP

16.8

16.2

16.4

0.1

0.61

25,110

TYA

11.3

10.5

11

0

0.00

27,650

UIC

9.9

9.6

9.6

0

0.00

3,270

UNI

13.5

12.7

13.2

0

0.00

3,650

VFC

7.4

7

7.4

0.1

1.37

18,180

VFMVF1

7.2

6.9

7.2

0.2

2.86

66,330

VFMVF4

3.9

3.8

3.8

0

0.00

264,200

VGP

20.4

19.4

19.4

-1

-4.90

260

VHC

20

19.4

19.4

0

0.00

2,320

VHG

6.5

6.3

6.5

0.3

4.84

7,730

VIC

82

78

82

2.5

3.14

40,210

VID

9.3

9.1

9.3

0

0.00

15,060

VIP

10.1

9.9

10.1

0.2

2.02

162,230

VIS

21.5

20.5

21.5

0.7

3.37

38,700

VKP

7.2

6.6

6.6

-0.3

-4.35

16,650

VNA

14.7

14

14.1

-0.6

-4.08

45,260

VNE

6.3

6

6

-0.2

-3.23

22,490

VNM

75.5

70.5

75.5

3.5

4.86

92,390

VNS

17.2

17

17.2

-1

-5.49

14,140

VPK

7.8

7.5

7.8

0.3

4.00

3,710

VPL

94.5

91

94.5

0

0.00

36,770

VSC

53

52

53

2.5

4.95

10,160

VSG

11

10.5

10.5

-0.2

-1.87

2,010

VSH

27.7

26.5

27.7

1.2

4.53

79,710

VTA

6.1

6.1

6.1

-0.3

-4.69

2,540

VTB

14.2

14

14

0

0.00

2,090

VTC

8.5

8.1

8.1

-0.4

-4.71

800

VTO

12.2

11.7

12

0.3

2.56

100,770

ATPVietnam