Dòng tiền tiếp tục 'dửng dưng' với thị trường

Tuesday, December 16, 2008 |

Chứng khoán thế giới tuột dốc trước nỗi lo suy thoái kéo dài cùng vụ lừa đảo Benard Madoff, Vn-Index sáng nay phản ứng bằng cú sụt mạnh 11,86 điểm (3,84%), đóng cửa ờ 296,42 điểm.

Chấm dứt chuỗi hồi phục 3 phiên liền, chỉ số chứng khoán sàn TP HCM qua đợt giao dịch đầu tiên đã bổ nhào xuống khi nhiều mã bộc lộ chiều hướng giảm giá mạnh. Mất 2,63 điểm, tương đương 0,85%, Vn-Index lùi về 305,65 điểm, lượng thực hiện đạt 2,1 triệu chứng khoán, ứng với 55,4 tỷ đồng.

Vn-Index lại thủng mốc 300 phiên sáng nay. Ảnh: Đ.Q.

Mốc 300 cận kề, tuy nhiên, đà đi xuống của Vn-Index chưa có dấu hiệu dừng lại trong đợt khớp lệnh liên tục. Xét nhóm 10 mã có giá trị vốn hóa lớn nhất HOSE, ngoài STB, PPC, VPL cùng PVF, những mã còn lại khá khẩm hơn khi chưa sụt hết biên độ cho phép. Từ giữa đợt 2, Vn-Index gần như phủ sạch những nỗ lực vươn lên của chỉ số này các phiên trước đó để một lần nữa rơi khỏi ngưỡng tâm lý 300.

Áp lực bán ra mạnh trong khi lượng mua vào vẫn hết sức thận trọng, Vn-Index bị trừ 11,64 điểm. Ngày càng nhiều số mã chứng khoán quay đầu đi xuống, không một tín hiệu tích cực đủ sức vực dậy thị trường hay ít ra giúp hãm đà giảm của chỉ số. Lượng cổ phiếu và chứng chỉ quỹ trao tay hết đợt 2 ước đạt 10,3 triệu, trị giá 258,6 tỷ đồng.

Phải mất một quãng đường dài để chỉ số chính của HOSE từ 300 điểm của năm 2005 bứt phá lên mốc 1.170 điểm vào tháng 3/2007. Thế nhưng, những mất mát của Vn-Index trong năm 2008 đã đưa chỉ số này về vạch xuất phát của 3 năm trước đó. Kết thúc phiên hôm nay, Vn-Index chỉ còn 296,42 điểm. Đây cũng là phiên thứ 7 của năm Vn-Index xuống dưới 300 điểm.

Hai ngày giao dịch đầu tuần đã chia đều cho Vn-Index một phiên đi lên và một phiên lùi bước. Tuy nhiên, số điểm mất đi hôm nay còn cao hơn mức tích lũy trong phiên tăng hôm qua. Mốc 300 lại thách thức Vn-Index..

Sức mua vẫn chưa có dấu hiệu ấm lên, giao dịch không tạo sự khác biệt so với những ngày trước đó. Tổng cộng có 12,4 triệu chứng khoán chuyển nhượng, với 318 tỷ đồng.

Theo nhận định của Phòng phân tích Công ty chứng khoán Bảo Việt, lượng cầu cũng như khối lượng giao dịch còn hạn chế cho thấy nhà đầu tư vẫn thận trọng khi giải ngân. Tốc độ dòng tiền vào thị trường chậm, nhiều khả năng Vn-Index sẽ tiếp tục tích lũy trước khi có thể hồi phục mạnh. Theo dự đoán của Bảo Việt, xu thế thị trường sẽ phụ thuộc nhiều vào lượng tiền được bơm vào trong giai đoạn tới.

Toàn sàn có 141 mã đo sàn, 16 mã đứng giá và chỉ 16 cổ phiếu giữ được đà tăng. Chiếm vị trí quán quân về lượng giao dịch, STB đạt 2,6 triệu cổ phiếu, kế đến là SJS (826.920 cổ phiếu), FPT (493.380 cổ phiếu).

Khớp nhịp cùng Vn-Index, HaSTC-Index trên sàn Hà Nội sau khi bật qua mốc điểm chẵn 110 hôm qua đã bị trừ 3,73 điểm (3,38%) phiên sáng nay, còn 106,57 điểm. Tổng khối lượng giao dịch toàn thị trường đạt 7,1 triệu chứng khoán, tương đương 166,3 tỷ đồng.

Chứng khoán Mỹ mất điểm phiên đầu tuần do nỗi lo về các nhà sản xuất ôtô, khối tài chính, thông tin về vụ lừa đảo Benard Madoff và dự đoán khả năng Cục Dự trữ Liên bang sẽ cắt giảm lãi suất vào hôm nay.

Chỉ số công nghiệp Dow Jones giảm 0,75% xuống còn 8.564,53 điểm. Chỉ số Standard & Poor 500 bị trừ 1,57%, chốt tại 868,57 điểm. Chỉ số Nasdaq đóng cửa tại 1.508,34 điểm, cao hơn tham chiếu 2,1%.

Cuối tuần trước, Benard Madoff, người được coi là một huyền thoại trên phố Wall, đã bị bắt sau khi vụ lừa đảo do ông ta thực hiện bị phanh phui. Chỉ bằng hình thức huy động vốn đầu tư với lãi suất cao, Madoff đã lôi kéo nhiều công ty trên toàn thế giới với tổng số tiền huy động lên tới 50 tỷ đôla. Vụ việc trên đã ảnh hưởng xấu lên tâm lý của nhà đầu tư Mỹ do Madoff là một nhân vật đầy quyền lực, có ảnh hưởng lớn tới thị trường chứng khoán.

Trong số nạn nhân của Madoff, có nhiều Ngân hàng lớn như HSBC và Royal Bank of Scotland cùng của Anh, BNP Paribas của Pháp, Banco Santander của Tây Ban Nha, Nomura của Nhật.

Nằm trong tâm điểm của sự chú ý còn có diễn biến từ ngành công nghiệp xe hơi. Chính quyền của Tổng thống Bush, cuối tuần trước, cho hay sẽ tạo điều kiện giúp General Motors (GM) và Chrysler vay tiền từ nguồn 700 tỷ đôla, dự định dùng để mua lại nợ xấu ngân hàng và các tổ chức tài chính. Tuy nhiên, ông Bush vẫn chưa đưa ra mốc thời gian cụ thể cho kế hoạch trên.

Theo một chuyên gia, thị trường đang lo lắng trước việc GMAC, Công ty Tài chính thuộc GM, sẽ thất bại trọng việc tăng đủ vốn để chuyển sang hoạt động dưới hình thức Công ty Chủ quản Ngân hàng (bank holding company). Trở thành công ty chủ quản ngân hàng là điều kiện cần thiết để tiếp cận nguồn hỗ trợ của FED. Nếu GMAC thất bại sẽ đồng nghĩa với GM sẽ gặp khó trong việc nhận hỗ trợ ngay cả khi được Chính phủ bật đèn xanh.

Chỉ số sản xuất khu vực New York vừa được công bố giảm xuống âm 25,8 điểm trong tháng 12 từ mức âm 25,4 điểm của tháng 11. Báo cáo trên chỉ ra, khối sản xuất tại khu vực trên đang ngập trong suy thoái. Theo một báo cáo độc lập khác, chỉ số tâm lý của người xây nhà trong tháng 12 là thấp nhất từ xưa đến nay do kinh tế suy yếu.

Tập đoàn Tài Chính Goldman Sachs và Nhà bán lẻ đồ điện tử Best Buy sẽ công bố lợi nhuận trong phiên tới. Theo được dự đoán, lợi nhuận của hai hãng đều giảm một nửa so với cùng kỳ năm ngoái.

Ngoài quyết định liên quan tới lãi suất, những phát biểu của FED về tình hình kinh tế cũng có ảnh hưởng lớn tới phố Wall. Ảnh: blog.nj.com
Ngoài quyết định liên quan tới lãi suất, những phát biểu của FED về tình hình kinh tế cũng có ảnh hưởng lớn tới phố Wall. Ảnh: blog.nj.com

Lãnh đạo FED đang tham gia cuộc họp kéo dài hai ngày, thảo luận về điều chỉnh lãi suất. Các chuyên gia dự báo, FED sẽ hạ lãi suất thêm nửa điểm phần trăm xuống còn 0,5%. Thậm chí có người còn dự đoán, lãi suất cơ bản có thể xuống tới 0,25% sau cuộc họp ngày mai.

Bên cạnh đó, nhận định của FED về nền kinh tế, thị trường lao động, và khủng hoảng tài chính cũng sẽ ảnh hưởng đáng kể đến phố Wall. Ngoài thông tin trên, hôm nay thị trường còn đón nhận các báo cáo về giá tiêu dùng, và thị trường nhà đất.

Giá dầu giảm 1,77 đôla xuống còn 44,51 đôla một thùng. Dầu tăng giá do giới đầu tư dự đoán OPEC sẽ tiếp tục cắt giảm sản lượng trong cuộc họp tại Algeria vào cuối tuần.

Tại châu Á, các thị trường lớn đồng loạt khởi sắc. Nhờ đôla tăng giá so với yên, cổ phiếu của các nhà xuất khẩu lớn đi lên đã giúp chỉ số Nikkei 225 của Nhật tăng 5,21%. Chỉ số Hang Seng của Hong Kong tiến thêm 1,83%. Chỉ số KOSPI của Hàn Quốc tăng 4,93%. Chỉ số Shanghai Composite được cộng thêm 0,52%.

Chịu ảnh hưởng từ phố Wall, phiên đầu tuần của các nhà đầu tư tại châu Âu diễn ra không mấy suôn sẻ. Chỉ số FTSE 100 của Anh hạ 0,07%. Chỉ số CAC 40 của Pháp và DAX của Đức mất lần lượt 0,87% và 0,18%.

Xuân Hòa (theo CNN, Bloomberg)

Phiên giao dịch ngày 16/12 chứng kiến một phiên giao dịch sụt giảm mạnh, VN-Index lại tụt xuống dưới ngưỡng 300 điểm trước thông tin ảnh hưởng xấu tới tâm lý nhà đầu tư trong nước.

Phiên giao dịch sụt giảm mạnh hôm nay có thể được cho là chịu sự tác động mạnh từ việc cổ đông ngoại International Finance Corporation (IFC) của cổ phiếu có ảnh hưởng lớn đến thị trường là STB của Sacombank đăng ký bán 50% số cổ phần đang nắm giữ.

Cụ thể, trong vòng 60 ngày kể từ ngày mai (17/12), IFC sẽ thực hiên thoái vốn tại Sacombank bằng việc đăng ký bán 16.083.664 cổ phiếu.

Đồng thời trong suốt 3 tháng qua động thái bán ròng của khối ngoại cũng ảnh hưởng mạnh tới quyết định của nhà đầu tư dù rằng trong thời gian gần đây giao dịch của họ giảm mạnh và khối lượng bán ra cũng không còn ồ ạt như trước.

Mặt khác qua 2 phiên giao dịch tăng điểm ấn tượng trước đó, xu hướng bán ra chốt lời ngay khi có thể là điều tất yếu khi trong bối cảnh thị trường vẫn chưa có tín hiệu thực sự bước vào khoảng thời gian hồi phục thực sự. Lượng đặt bán tăng lên rõ rệt hơn khi phần dư bán trên bảng điện nhiều có khá nhiều so với 2 phiên vừa qua.

Sức ép từ lượng cung có dấu hiệu tăng đã khiến thị trường đảo chiều đi xuống khi kết thúc giao dịch đợt 1 hôm nay. Cụ thể, chỉ số VN-Index quay đầu giảm nhẹ 2,63 điểm (tương đương giảm 0,85%) xuống 305,65 điểm. Trong đợt 1 chỉ có gần 2,2 triệu chứng khoán được chuyển nhượng với giá trị là 55,47 tỷ đồng.

Thông tin việc IFC bán cổ phần tại Sacombank dường như lan toả trên sàn GDCK, cổ phiếu đồng lọat giảm giá mạnh trong đợt khớp lệnh liên tục trước những đánh giá về tầm ảnh hưởng xấu tới thị trường.

Kết thúc đợt 2, chỉ số VN-Index đã đánh mất ngưỡng 300 điểm khi giảm mạnh 11,64 điểm (tương đương giảm 3,77%) xuống còn 296,64 điểm. Khối lượng giao dịch sau đợt này đạt hơn 10,3 triệu đơn vị với giá trị là 258,65 tỷ đồng.

15 phút khớp lệnh xác định giá đóng cửa không có diễn biến nào khác khi dư mua ở nhiều mã cổ phiếu không có, chỉ số VN-Index giảm mạnh 11,86 điểm (tương đương giảm 3,85%) đóng cửa ở mức 296,42 điểm. Như vậy, sau khi bật mạnh và tạo khoảng cách khá tốt với ngưỡng 300 điểm, VN-Index đã lại xuống dưới ngưỡng này.

Tổng khối lượng giao dịch khớp lệnh của cổ phiếu và chứng chỉ quỹ phiên này tăng lên so với phiên trước đó với hơn 11,86 triệu chứng khoán được chuyển nhượng, giá trị tương đương 294,4 tỷ đồng. Tăng 20% về khối lượng và tăng 32% về giá trị so với phiên giao dịch trước đó.

Nếu như trong 2 phiên trước đó đều có 80% số mã tăng giá thì phiên này đã đảo ngược hoàn toàn cũng với 80% số cổ phiếu quay đầu giảm giá. Cụ thể, trong tổng số 169 mã cổ phiếu và 4 chứng chỉ quỹ niêm yết, đã có 141 mã giảm giá (trong đó 93 mã giảm giá sàn), 17 mã tăng giá (với 3 mã tăng trần), 13 mã đứng giá và 2 mã không có giao dịch là DTT của Kỹ nghệ Đô Thành và VGP của Cảng Rau Quả.

3 mã cổ phiếu tăng trần phiên này là: BT6 của Bê tông Châu Thới, LCG của Licogi 16 và DPC của Nhựa Đà Nẵng, ngoài ra còn một số cổ phiếu khác tăng giá là SJS của Sudico, VNS của Ánh Dương, SZL của Sonadezi Long Thành, OPC của Dược OPC và một vài cổ phiếu nhỏ khác.

Như vậy các Blue-chips đều giảm mạnh cùng chung mức giảm điểm của VN-Index và trong nhóm 10 cổ phiếu vốn hoá lớn nhất sàn đều giảm giá trong đó đến 7 mã giảm giá sàn.

STB vẫn được khớp lệnh nhiều nhất trong phiên (2,7 triệu cp), sau đó không có mã nào đạt trên 1 triệu đơn vị khi đứng thứ 2 là SSI của Chứng khoán Sài Gòn (0,96 triệu cp), SJS (0,83 triệu cp), FPT của Tập đoàn FPT (0,49 triệu cp), LCG (0,37 triệu cp)...

Chi tiết giao dịch ngày 16/12:
(Đơn vị giá: 1.000đ, Đơn vị KL: 1 CP)

Mã CK

Giá cao nhất

Giá thấp nhất

Giá đóng cửa

Thay đổi

%Thay đổi

Khối lượng

ABT

24.5

24.5

24.5

-1.2

-4.67

10,560

ACL

19

18.6

18.7

-0.8

-4.10

8,330

AGF

15.9

15.2

15.2

-0.5

-3.18

23,300

ALP

9.5

8.9

8.9

-0.4

-4.30

61,540

ALT

18.5

17.5

17.5

-0.9

-4.89

8,420

ANV

18.3

17.9

17.9

-0.9

-4.79

55,940

ASP

12.4

11.6

11.6

-0.6

-4.92

58,620

BAS

9.8

9.8

9.8

-0.5

-4.85

30

BBC

13.9

13.6

13.6

-0.7

-4.90

23,970

BBT

4.3

4.3

4.3

-0.2

-4.44

15,200

BHS

15.5

14.7

15.5

0.1

0.65

17,830

BMC

70

68.5

68.5

-3.5

-4.86

20,460

BMI

15

14.9

14.9

-0.7

-4.49

8,390

BMP

30.5

29.6

29.6

-1.4

-4.52

18,410

BPC

9.7

9.5

9.7

-0.2

-2.02

8,390

BT6

41.1

41.1

41.1

1.9

4.85

1,900

BTC

20.9

20.9

20.9

-1

-4.57

70

CAN

10

10

10

0

0.00

150

CII

26.9

25.6

26.4

-0.5

-1.86

16,520

CLC

15.1

14.6

15.1

0

0.00

510

CNT

10.5

10

10.4

-0.1

-0.95

6,610

COM

35

33.4

35

0

0.00

15,730

CYC

9.7

9.3

9.5

-0.2

-2.06

15,960

DCC

10

9.5

9.5

-0.5

-5.00

14,020

DCL

29

28.2

28.2

-1.4

-4.73

6,550

DCT

8.4

8.2

8.2

-0.4

-4.65

20,380

DDM

12.7

11.8

11.8

-0.6

-4.84

16,330

DHA

18.7

17.8

17.8

-0.9

-4.81

4,030

DHG

128

122

123

-5

-3.91

15,850

DIC

14.1

13.8

13.8

-0.7

-4.83

14,290

DMC

53.5

51

53.5

0

0.00

7,250

DNP

8.6

8

8.5

0.1

1.19

4,040

DPC

9.5

8.7

9.5

0.4

4.40

700

DPM

34

32.2

32.2

-2.2

-6.40

338,930

DPR

31.1

30.9

30.9

-1.6

-4.92

16,200

DQC

16

15.7

15.7

-0.8

-4.85

22,080

DRC

16.6

16

16

-0.5

-3.03

13,200

DTT






0

DXP

19.6

18.5

18.5

-0.9

-4.64

12,240

DXV

6.4

6.2

6.2

-0.3

-4.62

21,810

FBT

16.2

14.9

16.2

0.6

3.85

18,520

FMC

12.2

11.6

11.6

-0.6

-4.92

14,300

FPC

19.5

19

19.5

-0.4

-2.01

1,500

FPT

52.5

50.5

50.5

-2.5

-4.72

493,380

GIL

14.2

14

14

-0.7

-4.76

17,610

GMC

14.9

14.5

14.5

0

0.00

3,200

GMD

27

25.1

25.1

-1.3

-4.92

174,620

GTA

8

7.6

8

0.1

1.27

1,140

HAP

14.2

13.8

13.8

-0.7

-4.83

39,590

HAS

11

10.4

11

0.1

0.92

720

HAX

14

14

14

-0.7

-4.76

4,110

HBC

15

14.7

14.7

-0.7

-4.55

19,310

HBD

10.2

10.2

10.2

-0.5

-4.67

1,100

HDC

21.7

20.5

20.5

-1

-4.65

9,850

HLA

13

13

13

0

0.00

3,010

HMC

11.7

11.2

11.7

0

0.00

6,360

HPG

30

28.9

28.9

-1.5

-4.93

256,750

HRC

27.5

26.2

26.2

-1.3

-4.73

2,990

HSG

22.6

22.6

22.6

-1.1

-4.64

610

HSI

10.8

10.4

10.4

-0.5

-4.59

910

HT1

13.3

13.3

13.3

-0.6

-4.32

25,110

HTV

9.1

8.7

8.7

-0.3

-3.33

13,080

ICF

6.8

6.7

6.7

-0.3

-4.29

12,600

IFS

8.2

8.2

8.2

0.2

2.50

820

IMP

65

62

63

-2

-3.08

860

ITA

27.4

26.1

26.1

-1.3

-4.74

110,310

KDC

27.9

26.6

27

-0.9

-3.23

43,420

KHA

12.4

11.8

11.8

-0.6

-4.84

36,020

KHP

9.9

9.4

9.4

-0.4

-4.08

12,070

KMR

5.8

5.6

5.6

-0.2

-3.45

38,930

KSH

13

12.9

12.9

-0.6

-4.44

6,260

L10

10.2

10

10.1

0.1

1.00

6,720

LAF

9.9

9.5

9.5

-0.4

-4.04

23,910

LBM

14.7

14.3

14.3

-0.7

-4.67

28,810

LCG

32.4

31

32.4

1.5

4.85

367,980

LGC

19.9

18.8

19.4

-0.3

-1.52

5,510

LSS

13.6

13.2

13.6

-0.2

-1.45

16,970

MAFPF1

3.8

3.7

3.7

-0.1

-2.63

10,470

MCP

14.7

13.7

14.2

-0.1

-0.70

26,610

MCV

8.8

8.4

8.4

-0.4

-4.55

41,380

MHC

8

7.6

7.6

-0.4

-5.00

11,940

MPC

11.6

11.3

11.3

-0.5

-4.24

28,600

NAV

9.8

9.4

9.4

-0.4

-4.08

4,940

NHC

31

28.9

28.9

-1.5

-4.93

1,980

NKD

25.5

24.3

24.3

-1.2

-4.71

4,610

NSC

22.5

21.5

22.2

-0.3

-1.33

4,610

NTL

33.9

32.2

32.2

-1

-3.01

50,810

OPC

26.6

25.8

26.6

1.2

4.72

233,980

PAC

35.6

35.6

35.6

-1.8

-4.81

17,890

PET

14.5

14.3

14.3

-0.7

-4.67

55,750

PGC

10.3

9.7

10.3

0.1

0.98

34,080

PIT

12.8

12.3

12.3

-0.6

-4.65

9,350

PJT

11.3

10.8

10.8

-0.5

-4.42

26,300

PMS

17.5

16.9

17.5

-0.2

-1.13

150

PNC

9.5

9.1

9.5

0

0.00

1,650

PPC

16.4

15.6

15.6

-0.8

-4.88

314,940

PRUBF1

4.1

3.9

3.9

-0.2

-4.88

63,090

PTC

9.5

9.5

9.5

-0.5

-5.00

5,560

PVD

69

67

68

-2

-2.86

87,270

PVF

16.4

16

16

-0.8

-4.76

311,640

PVT

15.5

15.2

15.2

-0.7

-4.40

136,290

RAL

21

20

21

0

0.00

3,740

REE

22.5

21.8

22

-0.9

-3.93

366,590

RHC

21.1

21.1

21.1

-1.1

-4.95

500

RIC

17.7

17

17.4

-0.3

-1.69

8,000

SAF

18.9

18.9

18.9

-0.9

-4.55

370

SAM

15

14.4

14.4

-0.7

-4.64

324,840

SAV

13.5

13.5

13.5

-0.4

-2.88

211,100

SBT

7.6

7.5

7.5

-0.3

-3.85

31,130

SC5

20.7

19.7

19.7

-1

-4.83

48,610

SCD

14.4

14.4

14.4

0.5

3.60

160

SDN

17.3

17.3

17.3

-0.9

-4.95

200

SFC

48

46

48

2

4.35

20,630

SFI

34.1

32.4

32.4

-1.7

-4.99

13,510

SFN

10.3

9.5

9.5

-0.5

-5.00

500

SGC

9.9

9.7

9.7

-0.5

-4.90

6,100

SGH

58

56

58

-0.5

-0.85

360

SGT

28.8

26.2

26.2

-1.3

-4.73

187,620

SHC

19.2

18.1

18.1

-0.9

-4.74

2,120

SJ1

11

10.8

10.8

-0.2

-1.82

1,010

SJD

14

13.8

13.8

-0.7

-4.83

8,000

SJS

50

48.2

49

1.1

2.30

826,900

SMC

21

20.1

20.1

-1

-4.74

12,240

SSC

17.8

16.8

17.2

0

0.00

4,920

SSI

29.6

28

28

-1.4

-4.76

958,610

ST8

19.1

18.9

18.9

-0.9

-4.55

3,940

STB

19.7

19

19

-0.9

-4.52

2,696,040

SZL

58.5

57.5

57.5

1

1.77

15,500

TAC

23

21.7

21.7

-1

-4.41

137,440

TCM

9

8.6

8.6

-0.4

-4.44

47,010

TCR

8.1

7.7

8.1

0

0.00

8,020

TCT

78

77

77

-4

-4.94

4,330

TDH

29.8

28.6

28.6

-1.5

-4.98

104,180

TMC

22

21

21

-1

-4.55

4,850

TMS

39

39

39

0

0.00

430

TNA

16.7

16.7

16.7

-0.7

-4.02

2,050

TNC

8.6

8.4

8.4

-0.4

-4.55

23,490

TPC

7.4

7.3

7.3

-0.3

-3.95

5,150

TRA

44.5

42.7

43

-1.5

-3.37

23,800

TRC

24.2

23.2

23.2

-1

-4.13

36,550

TRI

7.8

7.3

7.6

0

0.00

51,280

TS4

7.8

7.7

7.7

-0.4

-4.94

20,370

TSC

32.5

32.5

32.5

-1.7

-4.97

13,600

TTC

8.1

7.8

7.8

-0.4

-4.88

7,420

TTF

12.3

12.1

12.1

-0.6

-4.72

29,650

TTP

17.8

17.2

17.3

-0.8

-4.42

35,700

TYA

11.1

10.9

10.9

-0.5

-4.39

25,460

UIC

9.8

9.4

9.4

-0.4

-4.08

9,800

UNI

12.5

12.4

12.4

-0.6

-4.62

3,300

VFC

7.4

7.2

7.2

-0.3

-4.00

23,600

VFMVF1

7.5

7.4

7.4

-0.3

-3.90

135,610

VFMVF4

4

3.8

4

0

0.00

222,450

VGP






0

VHC

19

19

19

-1

-5.00

2,000

VHG

6.2

6

6

-0.3

-4.76

120,610

VIC

86

83.5

83.5

-0.5

-0.60

60,630

VID

9.4

9

9

-0.4

-4.26

32,330

VIP

10.6

10.1

10.1

-0.5

-4.72

306,420

VIS

23.1

23

23.1

-1.1

-4.55

5,180

VKP

7

6.7

6.7

-0.3

-4.29

8,840

VNA

14.3

14.1

14.1

-0.7

-4.73

16,820

VNE

6.3

6.2

6.2

-0.3

-4.62

33,650

VNM

84

80.5

81.5

-2.5

-2.98

121,110

VNS

17.5

16.6

17

-0.1

-0.58

48,130

VPK

8

7.8

7.8

-0.2

-2.50

5,000

VPL

83

79

79

-4

-4.82

5,690

VSC

54.5

53

53

-2

-3.64

7,200

VSG

10.9

10.3

10.8

0.3

2.86

9,170

VSH

28

27.2

27.2

-1.3

-4.56

26,850

VTA

6.2

6.2

6.2

-0.3

-4.62

3,480

VTB

14.8

14.1

14.1

-0.7

-4.73

30

VTC

8.8

8.5

8.7

-0.1

-1.14

960

VTO

12.2

11.7

11.7

-0.6

-4.88

91,180


ATPVietnam