Hai sàn diễn biến trái chiều

Thursday, October 9, 2008 |


Chứng khoán được dự báo sẽ xác lập đáy mới (ảnh: Hữu Nghị).

Điểm đáng chú ý trong đợt 1 là các mã cổ phiếu lớn VNM, PPC, DPM có dấu hiệu tăng điểm trở lại đã củng cố niềm tin cho NĐT về một đợt hồi phục mới, lệnh đặt mua bắt đầu ồ ạt tung vào thị trường, giúp Vn-Index đảo chiều và đã có lúc tăng hơn 8 điểm.

Nhưng chỉ đến giữa đợt khớp lệnh liên tục, lệnh bán lại ồ ạt tung ra khiến Vn-Index dần đuối sức và kết thúc phiên giao dịch ngày hôm nay, chỉ số này giảm nhẹ 3,65 điểm (tương đương 0,91%) xuống còn 397,68 điểm.

Phiên này chứng kiến khối lượng tăng mạnh, toàn thị trường có tới 21,421 triệu đơn vị giao dịch với trị giá 636,692 tỷ đồng.

Trong tổng số 164 mã niêm yết trên HoSe có 39 mã tăng giá (nhưng chỉ có 5 mã tăng trần), 103 mã giảm giá (60 mã giảm sàn) còn lại 22 mã giữ mức tham chiếu.

Trong nhóm 10 cổ phiếu vốn hoá lớn nhất trên HoSe có tới 5/10 mã tăng giá đó là VNM, DPM, STB, PVD và PPC, tuy nhiên không mã nào có được mức tăng trần, trong đó VNM có mức tăng mạnh nhất, cổ phiếu này tăng 4.000 đồng lên 94.000 đồng/CP.

Duy nhất VIC giữ mức giá tham chiếu khi kết thúc phiên. 4 mã còn lại trong nhóm này là FPT, HPG, SSI và VPL đều xuống giá sàn trong đó VPL của Vinpearl JSC giảm mạnh nhất, cổ phiếu này giảm 4.500 đồng xuống 94.500 đồng/CP.

Ngoài ra còn các tên tuổi khác giảm giá khiến Vn-Index đảo chiều bất thành như REE, KDC, TAC, SJS, ITA, NKD, BMI...

Về khối lượng giao dịch STB tiếp tục chứng tỏ là cổ phiếu được ưa chuộng khi có tới 2,85 triệu đơn vị được chuyển nhượng thành công, tiếp theo là các mã SSI với 1,42 triệu, VTO với 1,33 triệu…

Bên sàn Hà Nội, kết thúc phiên giao dịch, một loạt cổ phiếu tăng điểm trở lại với khối lượng giao dịch tương đối lớn (gần 14 triệu cổ phiếu khớp lệnh, đạt 370,7 tỷ đồng) đã kéo Hastc-Index tăng điểm trở lại sau khi “mất đà” vào giữa phiên.

Đóng cửa, chỉ số chứng khoán trên sàn Hà Nội tăng nhẹ 1,75 điểm (tương đương 1,37%) lên 129,28 điểm với 84 cổ phiếu tăng giá, 56 cổ phiếu giảm giá vào cuối phiên. Tuy nhiên nếu tính theo giá bình quân, số cổ phiếu tăng giá là 86 mã, số giảm giá là 61 mã và có 6 cổ phiếu đứng giá.

Các cổ phiếu tăng giá nhiều nhất là MIC (tăng 4.300 đồng), CCM (tăng trần 3.800 đồng), NTP (tăng 2.500 đồng), PVS (tăng 1.700 đồng), TJC (tăng 1.500 đồng). Hầu hết các cổ phiếu này đều tăng trên 4% và chỉ có CCM giao dịch với 600 cổ phiếu và MIC giao dịch 6.100 đơn vị, các cổ phiếu còn lại đều giao dịch với khối lượng lớn.

Các cổ phiếu giảm giá nhiều nhất là KKC, VNR, NPS, DTC và YSC với mức giảm từ 2.200 đồng - 2.700 đồng/CP.

Về khối lượng giao dịch, các cổ phiếu được ưa chuộng thời điểm Hastc tăng mạnh đã “quay trở lại” khi KLS phiên này giao dịch hơn 3 triệu cổ phiếu, ACB giao dịch hơn 900.000 cổ phiếu, PVI (848.800), PVS (632.500) và PAN (585.900). Trong đó ngoài ACB và PVS tăng điểm, 3 cổ phiếu còn lại đều giảm nhẹ.


Dường như việc cắt giảm lãi suất khẩn cấp của ngân hàng trung ương các nước không thể dập tắt nỗi hoảng sợ trong giới đầu tư. Phố Wall giảm phiên thứ 6 liên tiếp. Tại Nhật, Nikkei Index lao dốc hơn 9%, mức giảm mạnh nhất trong 20 năm.

Đóng cửa phiên giao dịch 8/10, chỉ số công nghiệp Dow Jones giảm chẵn 2%, xuống 9.258,10 điểm. Nasdaq và Standard & Poor 500 xuống dốc từ từ hơn, lần lượt mất 0,83% và 1,13%.

Cũng như các ngân hàng trung ương trên thế giới, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) hôm qua thông báo cắt giảm lãi suất từ 2% xuống 1,5%. Bên cạnh đó, lãi suất tiền gửi cũng được hạ thêm nửa điểm phần trăm. Việc đưa lãi suất xuống được trông đợi sẽ tác động tốt tới hoạt động tín dụng, xây dựng và mua bán bất động sản, cũng như kích thích kinh doanh.

Với nhiều người, Kinh tế Mỹ đang trở nên mong manh hơn khi những biện pháp như cắt giảm lãi suất, hạ thuế, hay bơm tiền vào các ngân hàng vẫn không thể giúp ổn định thị trường tín dụng và cho vay. Ảnh: typepad.com.

Sau giờ đóng cửa, FED cho hay sẽ cung cấp cho AIG, nhà bảo hiểm lớn nhất thế giới, khoản vay lên tới 37,8 tỷ đôla. Tháng trước, 85 tỷ đôla đã được FED chuyển vào AIG để tránh cho tập đoàn này khỏi nguy cơ phá sản.

Phố Wall ban đầu đã có phản ứng tích cực song về cuối phiên lại giảm mạnh khi giới đầu tư vẫn bi quan về triển vọng kinh tế thế giới. Tính từ thứ hai tuần trước tới nay, Dow Jones đã mất tới 1.600 điểm. Cả ba chỉ số chính đều đang ở mức thấp nhất trong năm năm trở lại đây.

Nỗi sợ suy thoái còn trở nên trầm trọng hơn khi Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) nhận định kinh tế toàn cầu bước vào giai đoạn sa sút. Theo tổ chức này, tăng trưởng kinh tế thế giới trong năm 2009 chỉ dừng lại ở 3%, trong khi dự báo đưa ra trong tháng 7 là 3,9%. Ngoài ra, quá trình hồi phục lần này sẽ chậm hơn nhiều so với giai đoạn sau đại khủng hoảng những năm 1930.

Theo một nhà phân tích, nỗ lực bơm tiền vào ngân hàng cũng như hạ lãi suất chưa thể làm chứng khoán tăng điểm trở lại. Ông nhận định, qua biến động giá chứng khoán, có thể dự báo nhà đầu tư đang cho rằng diễn biến kinh tế Mỹ trong sáu tháng tới sẽ rất tồi tệ. Chiều qua, Bộ trưởng Bộ Tài chính, ông Henry Paulson cho biết, chừng nào thị trường còn căng thẳng, Chính phủ sẽ dùng tất cả những nguồn có thể để đảm bảo sự cân bằng cho khối tài chính.

Cổ phiếu tại châu Âu rơi xuống mức thấp nhất trong 5 năm qua dù các Ngân hàng Trung ương hàng đầu tại khu vực này như Anh, Thụy Sĩ, Thụy Điển đồng loạt thông báo cắt giảm lãi suất. Chỉ số tổng hợp FTSEurofirst 300 của các doanh nghiệp hàng đầu châu lục mất tới 13,6% trong tuần qua, từ đó rơi xuống mức thấp nhất kể từ giữa tháng 12/2003.

Khủng hoảng tín dụng cũng khiến Chính phủ Anh phải bơm tới 50 tỷ bảng cứu các ngân hàng. Ngân hàng Trung ương Anh còn cam kết sẽ dùng 200 tỷ đôla để hỗ trợ thanh khoản cho hệ thống ngân hàng, nhằm ổn định thị trường tài chính.

Sau phiên hôm qua, chỉ số FTSE 100 của Anh xuống 5,18%. Chỉ số DAX của Đức thấp hơn phiên trước 5,88%, chỉ số CAC 40 của Pháp cũng hạ tới 6,31%.

Cổ phiếu tại Nhật giảm tới 19% sau năm ngày gần đây, cao hơn mức 13% của Dow Jones. Ảnh: cache.daylife.com.
Chỉ Nikkei 225 của Nhật giảm tới 19% sau năm ngày gần đây, cao hơn mức 13% của Dow Jones. Ảnh: cache.daylife.com.

Thị trường tài chính châu Á cũng "rối như canh hẹ". Đáng chú ý, Hàn Quốc đang trở thành một trong những mắt xích yếu nhất khi đồng Won của nước này giảm tới 12% giá trị so với đồng đôla chỉ trong ba ngày đầu tuần và mất giá 30% so với đầu năm. Dù Chính phủ đã nỗ lực ứng cứu nhưng tình hình vẫn chưa được cải thiện. Chỉ số KOSPI Composite của nước này mất tới 5,81% trong ngày hôm qua.

Chứng khoán Nhật trải qua phiên giảm tồi tệ nhất trong hơn 2 thập kỷ khi mất tới 9,38%, nâng tổng thiệt hai sau 5 ngày lên 19%. Trong đó, cổ phiếu của các nhà xuất khẩu lớn rớt giá thê thảm do đồng yen tăng giá mạnh so với đôla. Ngoài ra, cổ phiếu ngân hàng tài chính vẫn đang bị cuốn theo cơn lũ giảm điểm.

Chỉ số Shanghai Composite của Trung Quốc mất 3,04%, chỉ số Hang Seng của Hong Kong hạ 8,17%.


Nhanh chóng bật xanh với mức tăng hơn 7 điểm để rồi vội vã tuột xuống mức điểm âm, tổng quỹ Vn-Index hôm nay chỉ còn 397,68, mất tiếp 3,65 điểm (0,9%). Tuy nhiên, thị trường trải qua phiên giao dịch sôi động, thanh khoản phục hồi.

Tiếp đà giảm của 4 phiên trước, ngay từ đợt khớp lệnh mở cửa Vn-Index tuột dốc 11,35 điểm, giã từ ngưỡng 400 sau hơn 3 tháng ngự trị. Thanh khoản ở mức thấp, với 3,8 triệu chứng khoán chuyển nhượng, đạt giá trị 104,5 tỷ đồng.

Bước vào đợt khớp lệnh liên tục, diễn biến thị trường sôi động hơn, giải tỏa không khí ngột ngạt nhiều ngày qua khi cầu tăng mạnh trở lại. Nhập vào cuộc đua tăng giá lúc này đã có sự góp sức của những tên tuổi như DPM, VNM, STB, PPC, hé mở những hy vọng về sự đảo chiều sau 4 phiên điều chỉnh giảm liên tiếp. Vn-Index chỉ còn cách mốc tham chiếu có 4 điểm.

Đột ngột đảo chiều từ đợt khớp lệnh liên tục, nhưng Vn-Index đã không thể quay đầu mà kéo dài chuỗi giảm điểm sang phiên thứ 5 liên tiếp. Ảnh: B.H.

Ngay sau đó, nhiều cổ phiếu trên HOSE đã đón nhận lực cầu sung sức và nhanh chóng áp đảo lượng bán tồn đọng nhiều ngày qua. Chỉ số chứng khoán sàn TP HCM bật mạnh vượt qua mốc 400 với mức tăng lên đến 7 điểm. Trên bảng điện tử, màu đỏ đã không còn thống trị như 4 phiên vừa qua mà xuất hiện nhiều hơn mã xanh, tưới mát tâm lý căng thẳng đè nặng nhà đầu tư trong nước, khi nỗi lo về những bất ổn của thị trường tài chính thế giới vẫn chưa chấm dứt.

Mặc dù hành động chốt lãi của nhà đầu tư vẫn tiếp diễn ở hầu hết các mã chứng khoán. Tuy nhiên, điểm đáng lưu ý là bên mua đã sẵn sàng gom vào chứ không còn dè dặt như các phiên trước. Chớp lấy cơ hội, bên bán vội vã tung hàng, tạo nên diễn biến giằng co quyết liệt giữa cung cầu. Không thể chống cự nổi trước lực cung hàng mạnh ở hầu hết các mã, Vn-Index nhả dần từng điểm một và chấp nhận một kết cuộc giảm 4,74 điểm sau đợt khớp lệnh liên tục.

Tuy nhiên, cuộc đấu giá càng gay cấn bao nhiêu thì khối lượng khớp lệnh càng lớn bấy nhiêu. Hết đợt 2, tổng cộng có 19,2 triệu cổ phiếu và chứng chỉ quỹ sang tay, gấp 2 lần so với cùng đợt ngày 7/10, tương ứng 581,6 tỷ đồng.

Kiên trì ở thế đi lên nhưng những blue-chip như DPM, PPC, VNM, STB không đủ sức kéo Vn-Index trở lại đường ray tăng điểm trước áp lực bán tháo ở hầu hết các mã. Sau nhiều gắng gượng, chỉ số này kết phiên vẫn giảm 3,65 điểm. Dù hiện tại, mặt bằng giá cổ phiếu đã về tới mức khá hấp dẫn, tuy nhiên tâm lý của đa số các nhà đầu tư còn khá thận trọng. Mỹ, Canada, EU, Anh, Trung Quốc và nhiều nơi khác trên thế giới vừa đồng loạt cắt giảm lãi suất, một động thái chưa có tiền lệ, nhằm ngăn chặn khủng hoảng kinh tế đang rơi vào những thời khắc tồi tệ nhất trong lịch sử, đặc biệt là sự sụt giảm thảm hại trên các thị trường chứng khoán.

Điều đó đã ngăn trở động thái gom mạnh của nhà đầu tư, dù một lần nữa giá xăng điều chỉnh giảm 500 đồng một lít, một số doanh nghiệp công bố báo quý 3 với mức doanh thu, lợi nhuận ấn tượng. Tuy nhiên, khối lượng giao dịch thông qua khớp lệnh hôm nay tăng trở lại, đạt gần 21 triệu chứng khoán (tăng hơn 6 triệu chứng khoán so với hôm qua), tương ứng 621,9 tỷ đồng.

Phó tổng giám đốc công ty chứng khoán SSI, ông Nguyễn Hồng Nam, cho biết, tại các ngưỡng, mốc điểm chẵn, nhà đầu tư có xu hướng đẩy mạnh giao dịch, đón đầu cơ hội vì tin rằng thị trường sẽ hồi phục. Do đó, người mua sẽ mạnh tay hơn, còn người bán có cơ hội tống hàng đi, tạo diễn biến bập lên bềnh xuống của Vn-Index khiến thanh khoản thị trường cải thiện trở lại.

Kết phiên có hơn 100 mã giảm, BMC mất đến 5 điểm, TCT cùng IMP giảm 4-4,5 điểm. STB tiếp tục dẫn đầu thị trường về khối lượng giao dịch với 2,8 triệu cổ phiếu, kế đến là SSI (1,4 triệu cổ phiếu), VTO (1,3 triệu cổ phiếu), SAM (1,1 triệu cổ phiếu).

Trên sàn Hà Nội, HaSTC-Index đảo chiều tăng nhẹ 1,75 điểm (1,37%), dừng ở 129,28 điểm. Tổng khối lượng giao dịch toàn thị trường đạt gần 14 triệu chứng khoán, trị giá 370 tỷ đồng.

Phiên giao dịch thứ 1885 của thị trường chứng khoán Việt Nam đã ghi nhận phiên giao dịch khá kịch tính, VN-Index phiên này đã nỗ lực đảo chiều tăng điểm trở lại nhưng đã không thành.

Tiếp tục điểm qua tình hình tài chính toàn cầu, trong phiên giao dịch đêm qua tại Mỹ và Châu Âu, bất chấp các nỗ lực của các nước này, chứng khoán vẫn tiếp tục đi xuống. Trong khi đó tại thị trường khu vực Châu Á, sắc xanh đã trở lại với nhiều thị trường chủ chốt trong buổi sáng hôm nay.

Trong khi đó, tại Việt Nam mở cửa phiên giao dịch đã giảm điểm mạnh 3 phiên trước đó tiếp tục là sức ép tâm lý lớn đối với giới đầu tư và như thường lệ lệnh đặt bán vẫn chiếm ưu thế hơn hẳn, VN-Index chốt lại đợt 1 mất thêm 11,35 điểm (tương đương giảm 2,83%) xuống còn 389,98 điểm. Khối lượng giao dịch trong đợt giảm xuống còn hơn 3,8 triệu đơn vị với trị giá là 104,59 tỷ đồng.

Điểm gây chú ý là một số mã cổ phiếu có mức vốn hoá lớn trên sàn có dấu hiệu tăng khá sớm như VNM của Vinamilk, PPC của Nhiệt điện Phả Lại, DPM của Đạm Phú Mỹ.

Diễn biến kịch tính diễn ra trong đợt khớp lệnh liên tục khi trước sự hỗ trợ của một số mã Blue-chips kể trên đã thắp lên hy vọng về đợt hồi phục mới, lệnh đặt mua bắt đầu ồ ạt tung vào thị trường, cổ phiếu theo đó cũng đua nhau tăng giá và đỉnh điểm là đã có lúc VN-Index tăng hơn 8 điểm.

Tuy vậy, niềm vui đến khá ngắn khi chỉ đến giữa đợt khớp lệnh liên tục, lệnh bán lại ồ ạt tung ra, lo ngại mắc “bẫy giá lên” đã khiến VN-Index dần đuối sức và chốt lại đợt 2, VN-Index đã giảm nhẹ 4,74 điểm (tương đương giảm 1,18%) xuống còn 396,59 điểm.

Sức cầu tăng lên mạnh mẽ trong đợt này đã khiến khối lượng giao dịch tăng vọt với hơn 19,25 triệu đơn vị được giao dịch với giá trị là 581,69 tỷ đồng.

15 phút khớp lệnh xác định giá đóng cửa, không còn nhiều thay đổi, VN-Index chung cuộc vẫn để mất ngưỡng 400 điểm khi chỉ giảm nhẹ 3,65 điểm (tương đương giảm 0,91%) xuống còn 397,68 điểm.

Tổng khối lượng cổ phiếu và chứng chỉ quỹ được khớp lệnh thành công tiếp tục tăng khá mạnh lên hơn 20,96 triệu đơn vị với giá trị là 622 tỷ đồng. Như vậy đã tăng gần 40% về khối lượng và 46% về giá trị so với phiên trước đó.

Về biến động giá cổ phiếu, trong tổng số 160 mã cổ phiếu và 4 chứng chỉ quỹ niêm yết đã có 39 mã tăng giá (nhưng chỉ có 5 mã tăng giá trần), 103 mã giảm giá (trong đó có 60 mã giảm sàn). còn lại là 22 mã giữ mức tham chiếu.

Trong nhóm 10 cổ phiếu vốn hoá lớn nhất trên sàn đã ghi nhận một số mã tăng giá. Cụ thể, DPM của Đạm Phú Mỹ (+1.500 đồng lên 53.500 đồng/cp), VNM của Vinamilk (+4.000 đồng lên 94.000 đồng/cp), STB của Sacombank (+100 đồng lên 21.200 đồng/cp), PVD của PV Drilling (+1.000 đồng lên 82.000 đồng/cp) và PPC của Nhiệt điện Phả Lại (+1.200 đồng lên 28.000 đồng/cp).

Nếu như mã tăng giá không lên được trần thì chiều ngược lại một số mã giảm giá nhóm này đều xuống giá sàn như FPT của Tập đoàn FPT (-3.500 đồng xuống 75.500 đồng/cp), HPG của Hoà Phát (-2.200 đồng xuống 43.000 đồng/cp), SSI của Chứng khoán Sài Gòn (-2.200 đồng xuống 43.000 đồng/cp), VPL của Vinpearl JSC (-4.500 đồng xuống 94.500 đồng/cp).

Ngoài ra còn các tên tuổi khác giảm giá khiến VN-Index đảo chiều bất thành như REE, KDC, TAC, SJS, ITA, NKD, BMI...

Khối lượng khớp lệnh của từng cổ phiếu phiên này cũng tăng đáng kê, nhóm đầu như thường lệ vẫn là các mã Blue-chips như: STB (2,85 triệu cp), SSI (1,42 triệu cp), VTO (1,33 triệu cp), SAM (1,1 triệu cp), HPG (1,1 triệu cp), FPT (0,8 triệu cp), PVT (0,66 triệu cp)...

Chi tiết giao dịch ngày 9/10:
(Đơn vị giá: 1.000đ, Đơn vị KL: 1 CP)

Mã CK

Giá cao nhất

Giá thấp nhất

Giá đóng cửa

Thay đổi

%Thay đổi

Khối lượng

ABT

33.3

31

32

0

0

6,850

ACL

38

34.5

36.3

0

0

36,830

AGF

23.5

22

22.9

-0.1

-0.43

57,210

ALP

12.6

12

12.3

0

0

37,160

ALT

30.8

29.3

30.8

0

0

1,750

ANV

34.4

32.8

32.8

-1.7

-4.93

107,280

ASP

11.9

11.2

11.9

0.5

4.39

71,710

BBC

19.8

18.9

18.9

-0.9

-4.55

119,400

BBT

5.8

5.8

5.8

-0.3

-4.92

38,450

BHS

17

16.1

16.1

-0.8

-4.73

75,420

BMC

108

99

99

-5

-4.81

145,050

BMI

26.1

23.7

23.7

-1.2

-4.82

47,400

BMP

41

39.6

39.6

-2

-4.81

19,970

BPC

13.6

12.5

13

0

0

16,690

BT6

54

50.5

54

1.5

2.86

7,270

BTC

31

31

31

0.6

1.97

10

CAN

12.7

12.1

12.6

0

0

12,080

CII

28.5

27.1

27.1

-1.4

-4.91

197,970

CLC

18.5

17.5

17.5

-0.6

-3.31

1,520

CNT

18.8

17.3

17.3

-0.8

-4.42

29,840

COM

32

30.4

32

0

0

3,840

CYC

16.2

14.9

15

-0.5

-3.23

25,130

DCC

13.8

13

13

-0.5

-3.7

22,280

DCL

57.5

55.5

55.5

-2

-3.48

13,670

DCT

11.5

10.8

11

0

0

64,970

DDM

21.5

20

20

-1

-4.76

100,340

DHA

22

20.3

20.9

-0.4

-1.88

49,390

DHG

122

116

120

1

0.84

4,910

DIC

16.7

15.5

15.7

-0.6

-3.68

30,010

DMC

55.5

51

55.5

2.5

4.72

21,790

DNP

12

11.2

11.2

-0.5

-4.27

14,530

DPC

13.9

13.3

13.9

0.6

4.51

5,890

DPM

54.5

52

53.5

1.5

2.88

450,870

DPR

60.5

56

57

-1

-1.72

13,280

DQC

30.6

28

30

0.8

2.74

111,830

DRC

33.6

30.5

31.8

-0.2

-0.62

16,600

DTT

12

12

12

0

0

5,510

DXP

28.8

26.2

26.2

-1.3

-4.73

89,430

DXV

9.9

9.3

9.3

-0.2

-2.11

36,980

FBT

18.1

18.1

18.1

-0.9

-4.74

108,760

FMC

13.7

12.7

13

-0.2

-1.52

23,480

FPC

22.5

21.6

22.5

-0.2

-0.88

1,560

FPT

79.5

75.5

75.5

-3.5

-4.43

808,160

GIL

17.3

16.7

16.8

0.1

0.6

68,250

GMC

18.2

17.3

17.7

0

0

8,650

GMD

47.2

44

45.5

0.3

0.66

67,610

GTA

12.9

12.7

12.7

0.2

1.6

4,940

HAP

24.2

22.2

23.3

0

0

95,540

HAS

14

13.5

13.5

0

0

29,040

HAX

22.7

21.6

21.6

-1.1

-4.85

11,050

HBC

21.5

20.1

20.1

-1

-4.74

140,220

HBD

12.6

12.5

12.6

0.6

5

18,770

HDC

28

25.9

26

-1.2

-4.41

39,300

HMC

20.4

18.7

18.7

-0.9

-4.59

95,220

HPG

45.5

43

43

-2.2

-4.87

1,103,600

HRC

45.4

42.5

45

0.3

0.67

160,310

HSI

18.8

18

18

-0.3

-1.64

3,320

HT1

15.2

14

14

-0.7

-4.76

83,970

HTV

12.6

11.5

11.5

-0.6

-4.96

49,260

ICF

10.6

9.9

10.2

0.1

0.99

46,360

IFS

11.3

10.3

10.8

0

0

16,010

IMP

89

87

87

-4

-4.4

5,230

ITA

39.6

37.7

37.7

-1.9

-4.8

191,110

KDC

43

41.3

41.3

-2.1

-4.84

122,860

KHA

13.6

12.9

12.9

-0.1

-0.77

62,690

KHP

13.6

12.6

13

0

0

95,950

KMR

10.6

10.1

10.1

-0.5

-4.72

182,490

L10

14

13.3

13.3

-0.7

-5

7,880

LAF

18

17.1

17.1

-0.9

-5

99,390

LBM

26

24

24

-1.2

-4.76

113,570

LGC

24

23.5

23.5

-1.2

-4.86

54,490

LSS

15.7

14.5

15.6

0.6

4

18,740

MAFPF1

4.6

4.5

4.6

-0.1

-2.13

6,750

MCP

13.9

13.2

13.3

-0.5

-3.62

22,110

MCV

14

13

13

-0.6

-4.41

124,480

MHC

12.8

11.6

11.6

-0.6

-4.92

87,700

MPC

13.5

12.7

12.7

-0.6

-4.51

213,650

NAV

15.3

14.5

14.5

-0.2

-1.36

39,980

NHC

45.7

41.8

42

-1.7

-3.89

5,150

NKD

43.8

43.8

43.8

-2.3

-4.99

63,190

NSC

28.3

26.4

27.5

0.5

1.85

35,370

NTL

43

39.8

39.8

-2

-4.78

107,650

PAC

43

41

43

2

4.88

41,100

PET

22

20.2

20.2

-1

-4.72

249,490

PGC

13.1

12

12.6

0.1

0.8

66,670

PIT

18

17.1

17.1

-0.8

-4.47

54,970

PJT

14.4

13.3

13.6

-0.2

-1.45

19,820

PMS

20.2

18.7

20.2

0.7

3.59

2,100

PNC

12

11.4

11.5

-0.5

-4.17

15,660

PPC

28.1

26.8

28

1.2

4.48

368,530

PRUBF1

4.5

4.2

4.2

-0.1

-2.33

132,610

PVD

85

78

82

1

1.23

163,370

PVT

21.2

19.2

19.2

-1

-4.95

660,710

RAL

36.7

33.5

35

0

0

27,390

REE

33.2

31.7

31.7

-1.6

-4.8

659,490

RHC

22.1

20.2

20.3

-0.8

-3.79

1,400

RIC

17.5

16.2

17.1

0.1

0.59

21,480

SAF

20.4

19.5

19.6

0.1

0.51

960

SAM

21.5

19.6

19.6

-1

-4.85

1,104,550

SAV

14.4

13.2

14

0.2

1.45

19,600

SBT

10.8

10

10

-0.3

-2.91

361,580

SC5

31.2

28.5

29.5

-0.5

-1.67

117,670

SCD

18

18

18

0.4

2.27

250

SDN

20.9

20.9

20.9

-1.1

-5

1,750

SFC

34.5

34.3

34.5

-1.6

-4.43

13,550

SFI

55

50.5

50.5

-2.5

-4.72

80,060

SFN

12.4

11.7

12.4

0.2

1.64

160

SGC

14.5

13.3

13.5

-0.5

-3.57

15,140

SGH

89

89

89

0

0

10

SGT

31

28.9

28.9

-1.5

-4.93

240,130

SHC

46

43.9

44

-2

-4.35

39,050

SJ1

17.1

16

16

-0.3

-1.84

2,410

SJD

16

15.1

15.8

0.4

2.6

47,120

SJS

78

74.5

74.5

-3.5

-4.49

241,500

SMC

27.8

26.2

26.3

-1.2

-4.36

37,640

SSC

22

20.4

20.4

-1

-4.67

42,830

SSI

45

43

43

-2.2

-4.87

1,417,970

ST8

31.1

28.3

29

-0.7

-2.36

15,320

STB

22.1

20.5

21.2

0.1

0.47

2,847,480

SZL

52

49

49

-2.5

-4.85

52,040

TAC

44.7

42.5

42.5

-2.2

-4.92

252,750

TCM

11.5

10.5

10.5

-0.5

-4.55

207,520

TCR

11.6

11.6

11.6

-0.6

-4.92

39,900

TCT

98

89

89

-4.5

-4.81

14,890

TDH

36

33.7

33.8

-0.7

-2.03

131,390

TMC

32

30.3

30.3

-1.5

-4.72

22,570

TMS

41

40

40

0.9

2.3

5,250

TNA

19.5

18.2

19.2

0.1

0.52

21,880

TNC

13.4

12.8

13.1

0.3

2.34

67,840

TPC

9.5

9.2

9.2

-0.4

-4.17

182,740

TRC

56.5

51.5

51.5

-2.5

-4.63

89,520

TRI

15.7

14.3

14.5

-0.5

-3.33

3,800

TS4

13

12.5

12.5

-0.6

-4.58

59,490

TSC

57.5

53

55

0

0

57,200

TTC

11.1

10.3

10.3

-0.5

-4.63

41,710

TTF

21.7

20.6

20.8

0

0

33,750

TTP

19.9

18.2

19

0

0

144,540

TYA

16

14.7

14.9

-0.4

-2.61

110,460

UIC

12.7

11.5

12.3

0.2

1.65

38,560

UNI

19

17.3

17.3

-0.9

-4.95

24,850

VFC

12

11

11

-0.5

-4.35

40,980

VFMVF1

10.1

9.6

9.9

0.1

1.02

186,910

VFMVF4

6.2

5.8

5.8

-0.3

-4.92

83,750

VGP

24.5

22.3

22.3

-1.1

-4.7

22,170

VHC

25

24.2

24.2

-0.3

-1.22

6,940

VHG

12.8

12.3

12.3

-0.6

-4.65

100,310

VIC

87

80

84

0

0

91,600

VID

10.9

10.4

10.8

0.4

3.85

151,770

VIP

15.9

14.5

14.6

-0.6

-3.95

529,960

VIS

24

22.2

22.2

-1.1

-4.72

69,720

VKP

10.9

10

10.1

-0.4

-3.81

43,440

VNA

34

31.1

32

-0.4

-1.23

82,960

VNE

11.2

10.3

10.3

-0.4

-3.74

193,030

VNM

94

90

94

4

4.44

189,440

VNS

21.5

20.5

20.5

0

0

32,490

VPK

10.4

10

10.3

0.3

3

12,220

VPL

100

94.5

94.5

-4.5

-4.55

75,710

VSC

71

67

68

-1.5

-2.16

19,710

VSG

16

15

15.1

-0.4

-2.58

21,110

VSH

29

27

28.4

0.4

1.43

168,340

VTA

9.9

9.3

9.8

0.3

3.16

9,250

VTB

17.1

15.8

17.1

0.5

3.01

6,830

VTC

13

12.4

13

0

0

1,360

VTO

15.8

14.6

14.6

-0.7

-4.58

1,331,320

ATPVietnam