Giảm giá xăng nhỏ giọt vì chờ "ưu tiên thuế"

Wednesday, October 22, 2008 |

Liên tiếp trong 2 ngày 17, 18/10, các DN xăng dầu đầu mối đã giảm giá mỗi lần 500 đồng/lít xăng. Vì sao lại không giảm liền một lúc nhất là khi giá dầu thế giới đã giảm mạnh?

Sở dĩ DN chỉ giảm 500 đồng/lít xăng và 300 đồng/lít DO vào ngày 17/10 vì còn chờ quyết định của Bộ Tài chính ưu tiên áp thuế. Chiều cùng ngày, tại cuộc họp của Chính phủ, Thủ tướng đã quyết định chưa áp thuế để tạo điều kiện cho DN tiếp tục giảm giá nên ngày 18/10, DN yên tâm giảm tiếp 500 đồng/lít.

Dù nói thế nào thì người dân chưa thể quên được cảm giác tăng đột biến, giảm nhỏ giọt đối với xăng dầu thưa ông?

Khi so sánh tăng giá 4.500 đồng/lít xăng ngày 21/7 với việc giảm nhiều lần, mỗi lần 500 đồng/lít trong tháng 10 vừa qua, người tiêu dùng đã quên đi yếu tố thời gian.

Đó là ngày 21/7, giá xăng tăng sau 4 tháng kìm giữ trong khi giá dầu thế giới tăng rất nhanh. Như vậy, giữ khoảng thời gian khá dài để tăng 1 lần thì người tiêu dùng đã được lợi từ thời gian trễ đó.

Từ tháng 8 đến nay, các DN đã giảm liên tục theo đà giảm của giá dầu thô thế giới, tổng thể đã giảm tương đương mức tăng ngày 21/7. Hơn nữa, không có chuyện DN có mức lãi tới 3.000 - 4.500 đồng/lít xăng như dư luận đặt ra.

Theo tính toán của Bộ Công Thương, nếu trong tháng 10 giảm giá tất cả các mặt hàng xăng dầu 1.000 đồng/lít thì DN cơ bản không còn có lãi; diesel có lãi khoảng 400 đồng/lít, dầu ma-zút và dầu hỏa lãi khoảng 1.000 đồng/lít (sau khi trích 1.000 đồng/lít để hoàn trả ngân sách).

Nhưng với mức giảm giá xăng dầu hiện nay của DN so với mức giảm của thế giới đang chứng tỏ DN kinh doanh xăng dầu đang lãi lớn?

Ngày 17/10, Bộ Công Thương đã có báo cáo gửi Thủ tướng về tình hình kinh doanh và lộ trình giảm giá xăng, dầu năm 2008. Theo đó, với mức giá thế giới bình quân của nửa đầu tháng 10, áp dụng thuế nhập khẩu xăng 5% và dầu hỏa 10%, mức lãi theo dự kiến của mặt hàng xăng dầu là 3.000 đồng/lít.

Nhưng đó chỉ là lãi giả thiết trong trường hợp giá xăng dầu thế giới được nhập về ngày hôm qua để bán ngay trong ngày hôm sau. Còn trên thực tế, quy định hiện nay buộc DN phải dự trữ xăng dầu 30 ngày để đảm bảo an ninh năng lượng, không mua bán ngay được.

Động thái cùng nhau giảm giá ở mức 500 đồng cũng khiến dư luận lo ngại DN đang “bắt tay" nhau. Ông nghĩ sao?

Khi “ông lớn” Petrolimex giảm giá thì những ông bé buộc phải nhìn vào đó mà giảm theo, nếu không hệ thống đại lý của ông sẽ chạy sang Petrolimex. Ngược lại, nếu DN nhỏ giảm giá mà Petrolimex không giảm thì sẽ làm xói mòn niềm tin của người tiêu dùng.

Đó là yếu tố quan trọng để buộc DN phải giảm giá, như thế cũng là bảo đảm được lợi ích của người tiêu dùng. Mặt khác, các cơ quan điều hành cũng luôn theo dõi chặt chẽ không để DN lãi bất hợp lý.

Xin ông cho biết, thị trường xăng dầu trong nước tới đây được điều hành theo cơ chế như thế nào và liệu nó có bảo đảm được quyền lợi của người tiêu dùng không?

Hướng điều hành sắp tới của Chính phủ là chuyển hoàn toàn kinh doanh xăng dầu theo thị trường. Nhưng để các DN thực sự hoạt động theo cơ chế thị trường chúng ta cần phải làm 3 điều.

Thứ nhất, để DN tự định giá, điều này đã làm được.

Thứ 2, tạo điều kiện để DN trở về trạng thái kinh doanh bình thường, bù lỗ giá các loại dầu còn nợ DN, tạo điều kiện để DN trích bù hết lỗ xăng của các DN (hoặc trả hết phần tạm ứng của Nhà nước).

Thứ ba, tạo điều kiện để DN có thể dự báo được tình hình diễn biến thị trường, tự đưa ra các quyết định kinh doanh; hoàn thiện cơ chế điều hành không can thiệp trực tiếp vào quyết định kinh doanh của DN, xác định mức thuế theo giá để họ dễ tính toán.

Xin cám ơn ông!

Mở cửa thị trường vàng trong nước sáng nay 22/10, giá vàng SJC và Bảo Tín Minh Châu tại Hà Nội niêm yết ở mức: 1,685 triệu đồng/chỉ (mua vào) - 1,7 triệu đồng/chỉ (bán ra), giảm khoảng 20.000 đồng/chỉ so với sáng qua.

Tại sàn giao dịch vàng ACB, giá vàng SJC lúc mở cửa phiên là 1,642 triệu đồng/chỉ. Tính đến 9h30 sáng, toàn sàn có 93.300 lượng vàng chuyển nhượng thành công, tương ứng giá trị trên 1.500 tỷ đồng.

Trên thế giới, giá vàng giao vào tháng 12 tại New York giảm 22 USD (tương đương 2,8%), xuống mức 768 USD/ounce; trong phiên giao dịch, có lúc giá vàng hạ xuống 766,4 USD/ounce, mức giá thấp nhất từ ngày 12/9. Cũng tại thị trường này, giá vàng giao ngay hạ 25,1 USD, xuống mức 769,9 USD/ounce.

Giá vàng giảm mạnh là do USD tăng giá lên mức cao nhất trong 19 tháng qua so với đồng Euro, trước dự đoán Ngân hàng Trung ương châu Âu sẽ cắt giảm lãi suất với tốc độ nhanh hơn FED. Mức lãi suất liên bang của FED hiện nay là 1,5%, còn lãi suất của ECB là 3,75% .

Tỷ giá USD/Euro trong phiên giao dịch ngày hôm qua tại thị trường New York đã có lúc lên tới mức 1,3079 USD/Euro, mức cao nhất từ tháng 3/2007.

Ảnh hưởng bởi yếu tố tâm lý, giá USD trên thị trường tự do trong nước sáng qua cũng vọt lên mức 16.950 VND, nhưng đã hạ nhiệt nhanh chóng. Sáng nay, giá USD còn mức: 16.800 VND (mua vào) - 16.900 VND (bán ra), một vài cửa hàng giảm xuống 16.700 VND - 16.800 VND.

Tỷ giá bình quân liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước công bố ngày 22/10 tăng thêm 2 VND so với hôm qua, lên mức 16.521 VND/1 USD; tỷ giá giao dịch của ngân hàng thương mại là: 16.720 VND - 16.800 VND.

Chứng khoán "nhăm nhe" phá đáy cũ

|

Việc chứng khoán Mỹ trong đêm qua đã lại để mất điểm và khu vực Châu Á cũng đang bao phủ sắc đỏ ở hầu khắp các thị trường quan trọng đã ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lý của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam.

Sau phiên giao dịch đầy khởi sắc hôm qua, sáng nay thị trường đã bất ngờ quay đầu giảm điểm. Kết thúc đợt 1, Vn-Index đã giảm mạnh 10,06 điểm (tương đương 2,65%) xuống còn 369,88 điểm. Giao dịch giảm mạnh với chỉ hơn 2,6 triệu đơn vị được giao dịch.

Sang đợt khớp lệnh liên tục, thị trường có phần bớt căng thẳng hơn khi Vn-Index dần rút bớt được số điểm bị mất trong đợt 1, kết thúc đợt 2 này chỉ số này chỉ còn giảm 5,85 điểm.

Kết thúc phiên, Vn-Index giảm 5,03 điểm (tương đương 1,32%) đóng cửa ở mức 374,91 điểm. Toàn thị trường có 13,235 triệu đơn vị giao dịch trị giá 537,416 tỷ đồng.

Trong tổng số 164 mã niêm yết trên Hose có 41 mã tăng giá (chỉ có 9 mã tăng giá trần) trong khi đó có đến 106 mã giảm giá (30 mã giảm sàn), còn lại là 16 mã đứng giá và 1 mã không có giao dịch là SFC.

Nhóm 10 cổ phiếu có mức vốn hoá lớn nhất sàn chỉ có PVD và VIC giữ được mức tăng nhẹ, các mã còn lại trong nhóm này đều giảm giá nhưng không mã nào giảm sàn.

Nhóm tăng giá, đáng chú ý là cổ phiếu ITA của CTCP Đầu tư Công nghiệp Tân Tạo tăng trần 1.500 đồng lên 32.300 đồng/CP, các mã đáng chú ý khác là TDH, KDC, REE, SJS, VSH…

Về khối lượng giao dịch, ITA bất ngờ tăng mạnh và dẫn đầu thị trường với hơn 1 triệu cổ phiếu. Sau đó là một số mã blue-chips quen thuộc như STB, SSI, HPG…

Bên sàn Hà Nội, Hastc-Index đóng cửa phiên giao dịch giảm 3,76 điểm (tương đương với mức giảm 2,97%), xuống 123,05 điểm. Khối lượng giao dịch đạt hơn 5,27 triệu cổ phiếu, tương đương 164,94 tỷ đồng.

Các mã cổ phiếu tăng mạnh nhất sàn phiên này là HLY (tăng trần 3.100 đồng), STL, SDS, YSC và VBH (tăng trên 1.000 đồng/CP). Trong khi đó, hàng loạt các cổ phiếu tăng mạnh trong thời gian qua đều giảm hơn 6% như CCM, VTS, VC2, MIC.

Cổ phiếu KBC trước đây luôn đi ngược thị trường, phiên này giảm mạnh 4.700 đồng xuống 63.700 đồng/CP. Cổ phiếu CCM sau một thời gian tăng trần liên tục bị bán ra với hơn 100.000 cổ phiếu dư bán giá sàn vào cuối phiên.

Diễn biến khả quan tại thị trường cho vay liên ngân hàng là không đủ để ngăn Phố Wall lao dốc. Kết quả thiếu lạc quan về kinh doanh quý III đã làm giới đầu tư mất vui.

Chỉ số Dow Jones mất 2,5%, đóng cửa tại 9.033,66 điểm. Nasdaq chỉ còn 1.696,68 điểm, thấp hơn phiên trước 4,14%. Standard & Poor (S&P 500) 500 đang ở mức 955,05 điểm, giảm 3,08%.

Hôm qua 21/10, chứng khoán được hỗ trợ bởi một số tin tốt như lãi suất cho vay liên ngân hàng tiếp tục được cải thiện. Điều này cho thấy nỗ lực của Chính phủ Mỹ để "phá băng" thị trường tín dụng tiếp tục có hiệu quả. Lãi suất Libor qua đêm giảm từ 1,51% xuống 1,28%. Libor thời hạn ba tháng cũng tiếp bước những ngày gần đây, hạ 0,23% xuống chỉ còn 3,83%. Các nhà phân tích dự đoán, thị trường cho vay sẽ tiếp tục cải thiện trong tháng tới.

Ngay sau phiên tăng mạnh đầu tuần, phố Wall đã lại giảm điểm mặc dù thị trường cho vay liên ngân hàng tiếp tục được cải thiện. Ảnh:media.canada.com.
Phiên tăng mạnh vào đầu tuần và thị trường cho vay liên ngân hàng được cải thiện là chưa đủ để tránh cho phố Wall một phiên giảm. Ảnh:media.canada.com.

Tuy nhiên, tín hiệu tốt trên không đủ để giúp nhà đầu tư quên đi nỗi lo suy thoái, vốn đè nặng trong nhiều ngày qua. Nỗi lo này một lần nữa lại bùng lên khi kết quả kinh doanh của các tập đoàn cho thấy kinh tế Mỹ đang gặp nhiều khó khăn. 21% trong số các công ty cấu thành bộ chỉ số S&P 500, của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đã công bố kết quả kinh doanh. Trong đó, nhìn chung lợi nhuận quý III thấp hơn 10% so với cùng kỳ năm ngoái.

Yahoo quý vừa qua thu được 4 cent trên một cổ phiếu, thấp hơn mức 11 cent cùng kỳ năm ngoái và cả dự đoán 9 cent của các chuyên gia. Tập đoàn này cho biết thêm, từ nay đến cuối năm sẽ cắt giảm 10% nhân công, khoảng 1.500 người. Yahoo dự đoán, tình hình làm ăn của năm 2008 sẽ không đạt chỉ tiêu đề ra hồi đầu năm. Một gã khổng lồ khác trong lĩnh vực công nghệ là Apple thông báo, doanh thu và lợi nhuận quý IV tăng mạnh so với năm ngoái nhờ sản phẩm mới iPhone. Song Apple nhận định quý IV sẽ không mấy dễ chịu do kinh tế Mỹ tiếp tục suy yếu.

Một loạt hãng cấu thành nên chỉ số Dow Jones, như American Express, DuPont, Texas Instrument, Caterpillar cùng công bố lợi nhuận quý III sụt giảm.

Nhóm dầu khí cũng không khá hơn khi cổ phiếu của các tập đoàn hàng đầu gồm Chevron, Exxon Mobil, ConocoPhilips và BP sau khi tăng vào ngày đầu tuần đã đều giảm trong phiên vừa qua.

Thị trường nhiên liệu và hàng hóa cơ bản đồng loạt đi xuống. Dầu thô tiếp tục rẻ đi 3,36 đôla, hiện có giá 70,89 đôla một thùng. Xăng có ngày giảm giá thứ 34 liên tiếp, mất 3,4 cent và hiện chỉ còn 2,889 đôla một galon (3,78 lít). Vàng hạ 22 đôla, chốt tại 768 đôla một ounce.

Tại châu Á, đồng đôla hồi phục so với đồng yen tiếp tục mang lại cơ hội cho các nhà xuất khẩu. Nhật Bản, thị trường chứng khoán lớn thứ hai thế giới, khởi sắc mạnh mẽ nhờ nhóm cổ phiếu xuất khẩu như Honda, Toyota, Sony tăng điểm. Chỉ số Nikkei 225 của nước này đi lên 3,34%.

Chứng khoán Trung Quốc và Hong Kong đi theo chiều hướng ngược lại. Lần lượt các chỉ số Shanghai và Hang Seng của hai nước đi xuống 0,78% và 1,84%. Tại Hàn Quốc, việc Chính phủ bơm tiền vào thị trường tài chính có lẽ vẫn chưa đủ để làm các nhà đầu tư hoàn toàn yên tâm. Chỉ số KOSPI mất 0,95%.

Thị trường cổ phiếu Âu trải qua một phiên không mấy vui vẻ. Chỉ số FTSE 100 của Anh bị trừ 1,24%. Chỉ số DAX của Đức lùi xuống 0,95%. Chứng khoán Pháp ghi nhận mức tăng 0,78% của chỉ số CAC 40.

Giao dịch chứng khoán sụt mạnh

|

Không duy trì được đà tăng điểm đầu tuần, Vn-Index mất hơn 5 điểm, cách đáy cũ khoảng 8 điểm. Giao dịch sụt hơn 40%, do giới đầu tư vẫn chùn tay khi thị trường đang trong giai đoạn nhạy cảm.

Chứng khoán phát tín hiệu đuối sức ngay từ đợt một khi mất 2,65%, tương đương 10,06 điểm, mở cửa tại 369,88 điểm. Lượng sang tên đạt 2,619 triệu chứng khoán, giá trị tương ứng 76,82 tỷ đồng.

Sau đợt mở cửa, Vn-Index mất điểm khá mạnh nhưng lượng mã hạ sàn không quá lớn. Trong nhóm 20 đại gia hàng đầu, chỉ SSI có mức giảm tối đa. Lượng giao dịch tiếp tục ở mức thấp trong khi không có dấu hiệu bán tháo cho thấy giới đầu tư hiện đang trong trạng thái nghe ngóng. Bên mua chưa sẵn sàng trong khí bên bán cũng không có dấu hiệu hoảng loạn.

Chứng khoán có lần thứ ... liên tiếp tiếp cận mức đáy cũ. Ảnh: Hoàng Hà.
Chứng khoán có lần thứ 4 liên tiếp tiếp cận mức đáy cũ. Ảnh: Hoàng Hà.

Thị trường đang có một số thông tin hỗ trợ như giá chứng khoán quay về mức hấp dẫn, thời điểm này là cao điểm của đợt công bố kết quả kinh doanh quý III, thông tin tốt từ khối ngân hàng và xăng giảm giá. Tuy nhiên, nhưng những yếu tố tích cực trên chưa đủ để hàn thử biểu thoát khỏi khu vực nguy hiểm.

Vn-Index cách đáy cũ đúng một phiên giảm và mô hình vai đầu vai đang hình thành. Cùng với đó là cuộc khủng hoảng chưa có hồi kết tại thị trường tài chính thế giới đang khiến nhiều nhà đầu tư chùn tay. Bên cạnh đó, giao dịch bán nhiều hơn mua của khối ngoại trong nhiều phiên gần đây cũng gây tâm lý hoang mang trong một bộ phận nhà đầu tư. Thế nên, thật khó có thể khẳng định nhà đầu tư thời gian tới sẽ gấp rút gom vào hay bán tống bán tháo để thoát khỏi thị trường.

Theo ông Ngô Văn Minh, chuyên gia phân tích chứng khoán, lãi suất cơ bản điều chỉnh giảm cũng như các ngân hàng được thanh toán tín phiếu trước hạn sẽ giúp doanh nghiệp tiếp cận vốn dễ dàng hơn. Tuy nhiên, điều này cũng chỉ giảm bớt một phần khó khăn mà các công ty đang gặp phải. Hơn nữa, thay đổi tích cực này sẽ không phản ánh vào kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp trong ngắn hạn mà chỉ phát huy tác dụng trong dài hạn.

Ông Minh cho rằng, thị trường trong nước đang phụ thuộc nhiều diễn biến của khủng hoảng tài chính thế giới, vốn rất mong manh. Nhà dầu tư không nên ra quyết định giao dịch chỉ dựa trên tin tốt trong nước như giảm giá xăng, hay điều chỉnh lãi suất.

Số điểm trừ khá lớn của sau giờ mở cửa của Vn-Index đã được hạn chế trong thời gian khớp lệnh liên tục. Vn-Index giảm 1,54% tương đương 5,85 điểm, chốt tại 374,09 điểm. Lượng trao tay tính tới hết đợt hai đạt 8,68 triệu tương đương 255,4 tỷ đồng.

Cầu tiếp tục tăng lên trong đợt khớp lệnh cuối giúp chứng khoán Việt Nam kết thúc ngày giao dịch với mức 374,91 điểm của Vn-Index, thấp hơn phiên trước 5,03 điểm tương đương 1,32%. Tổng lượng thực hiện qua giao dịch báo giá là 10,12 triệu chứng khoán, giá trị tương đương 292,8 tỷ đồng. Tính thanh khoản trong phiên hôm nay sụt trên 40% so với hôm qua.

Qua mua bán thỏa thuận, đã có 3,11 triệu chứng khoán được sang tên, trị giá khoảng 244,6 tỷ đồng. Toàn sàn có 40 mã tăng 108 mã giảm và 16 mã đứng giá.

Khối ngoại phiên này bán ra nhiều hơn mua vào. Lượng bán của nhà đầu tư nước ngoài là 3,08 triệu trong khi số mua vào chỉ khoảng 1,86 triệu chứng khoán. Đáng chú ý, trái phiếu chiếm tỷ trọng lớn và cùng đạt 850 nghìn đơn vị trong cả giao dịch mua và bán của nhà đầu tư nước ngoài.

Tại sàn Hà Nội, HaSTC-Index đóng cửa tại 123,05 điểm, giảm 3,76 tương đương 2,97%. Lượng cổ phiếu trao tay đạt 6,05 triệu, ứng với giá trị 209,98 tỷ đồng.

Sau phiên giao dịch ngày hôm qua, chỉ số VN-Index đã tạm thời giữ được khoảng cách an toàn với ngưỡng 366 điểm khi bật khá mạnh trở lại lên sát 380 điểm thì đến phiên hôm nay đã không tiếp nối được đà hồi phục đó mà chỉ số này lại đảo chiều giảm nhẹ.


Bất chấp một loạt thông tin về tình hình kinh tế vĩ mô trong nước tiếp tục có tín hiệu khả quan, thị trường chứng khoán dường như vẫn chưa có phản ứng tích cực nào trước những thông tin hỗ trợ có thể nói là khá mạnh này.

Tâm lý bất ổn vẫn thường trực trong giới đầu tư, thêm vào đó những tác động từ phía ngoài vẫn có phần ảnh hưởng tới nhà đầu tư trong nước thời điểm này khi thị trường chứng khoán toàn cầu cũng bất thường với việc chứng khoán Mỹ trong đêm qua đã lại để mất điểm và cùng lúc này khu vực Châu Á cũng đang bao phủ sắc đỏ ở hầu khắp các thị trường quan trọng.

Tiếp tục với diễn biến giao dịch hôm nay trên sàn GDCK Tp Hồ Chí Minh, ngay khi kết thúc đợt 1, đà tăng điểm phiên trước đó đã lại bị chặn đứng khi chỉ số VN-index bất ngờ đảo chiều giảm khá mạnh và lấy đi toàn bộ số điểm có được phiên trước đó. Cụ thể, chỉ số này giảm 10,06 điểm (tương đương giảm 2,65%) xuống còn 369,88 điểm.

Giao dịch giảm sút mạnh với chỉ hơn 2,6 triệu đơn vị được giao dịch với giá trị chỉ là 76,82 tỷ đồng trong 30 phút xác định giá mở cửa phiên này.

Sang đợt khớp lệnh liên tục, thị trường có phần bớt căng thẳng hơn khi VN-Index dần rút bớt được số điểm bị mất trong đợt 1, và khi kết thúc đợt 2 này chỉ số VN-Index chỉ còn giảm 5,85 điểm (tương đương giảm 1,53%) xuống 374,09 điểm. Giao dịch vẫn chưa được cải thiện nhiều với chỉ hơn 8,68 triệu đơn vị được chuyển nhượng giá trị đạt 255,4 tỷ đồng.

Đợt giao dịch cuối cùng trong ngày khép lại cũng là đợt khớp lệnh định kỳ mà VN-index giảm điểm ít nhất. Chung cuộc, chỉ số này giảm 5,03 điểm (tương đương giảm 1,32%) đóng cửa ở mức 374,91 điểm.

Tổng khối lượng giao dịch của cổ phiếu và chứng chỉ quỹ được khớp lệnh thành công phiên này lại giảm xuống còn hơn 10 triệu đơn vị với giá trị là 292,8 tỷ đồng, như vậy cả khối lượng và giá trị giao dịch phiên này chỉ bằng 2/3 phiên trước đó.

Trong tổng số 160 mã cổ phiếu và 4 chứng chỉ quỹ niêm yết đã có 41 mã tăng giá (nhưng chỉ có 9 mã tăng giá trần) trong khi đó có đến 106 mã giảm giá (trong đó có 30 mã giảm sàn), còn lại là 16 mã đứng giá và 1 mã không có giao dịch là SFC của CTCP Nhiên liệu Sài Gòn.

Nhóm 10 cổ phiếu có mức vốn hoá lớn nhất sàn đã không duy trì được sự nâng đỡ đối với VN-Index mà trái lại chỉ có 2 mã tăng giá nhẹ là PVD của PV Drilling (+1.000 đồng lên 83.000 đồng/cp) và VIC của Vincom (+500 đồng lên 82.500 đồng/cp).

Các mã còn lại trong nhóm này đều giảm giá, tuy không mã nào giảm sàn nhưng cũng đủ để VN-Index đảo chiều phiên này, sự níu kéo đến từ DPM của Đạm Phú Mỹ, STB của Sacombank, FPT của Tập đoàn FPT, HPG của Hoà Phát, VNM của Vinamilk...

Đối trọng với nhóm cổ phiếu giảm giá trên, phiên này ghi nhận một số mã tăng giá trong đó ấn tượng là cổ phiếu ITA của CTCP Đầu tư-Công nghiệp Tân Tạo tăng trần (+1.500 đồng lên 32.300 đồng/cp), TDH của Nhà Thủ Đức (+1.400 đồng lên 29.400 đồng/cp), KDC của Kinh Đô (+1.800 đồng lên 38.700 đồng/cp), REE của Cơ điện Lạnh (+900 đồng lên 28.900 đồng/cp), SJS của Sudico (+2.000 đồng lên 61.000 đồng/cp), VSH của Thuỷ điện Vĩnh Sơn-Sông Hinh (+200 đồng lên 28.500 đồng/cp)...

Về khối lượng khớp lệnh, ITA bất ngờ tăng mạnh và dẫn đầu thị trường (hơn 1 triệu cp). Sau đó là một số mã quen thuộc như: STB (gần 1 triệu cp), SSI (0,91 triệu cp), HPG (0,38 triệu cp), SAM (0,34 triệu cp), VTO (0,28 triệu cp), REE (0,25 triệu cp)...

Chi tiết giao dịch ngày 22/10:
(Đơn vị giá:1.000đ, Đơn vị KL: 1 CP)

Mã CK

Giá cao nhất

Giá thấp nhất

Giá đóng cửa

Thay đổi

%Thay đổi

Khối lượng

ABT

31.5

29.1

31

0.5

1.64

7,820

ACL

37.5

35.2

37.5

0.8

2.18

6,690

AGF

21

20.6

20.8

-0.2

-0.95

17,310

ALP

11.5

11.3

11.3

-0.3

-2.59

20,300

ALT

29

28.1

28.1

-1.4

-4.75

7,710

ANV

24.8

24.8

24.8

-1.3

-4.98

65,210

ASP

12.6

12.5

12.5

-0.3

-2.34

19,930

BBC

17.1

16.5

16.6

-0.7

-4.05

33,000

BBT

7.3

7.3

7.3

0.3

4.29

46,200

BHS

15

14.3

15

0

0.00

11,200

BMC

93

89.5

89.5

-4.5

-4.79

38,270

BMI

20.4

20.4

20.4

-1

-4.67

14,680

BMP

37.6

36.3

37.6

0

0.00

11,530

BPC

12.1

12.1

12.1

-0.5

-3.97

40

BT6

56

54

56

0

0.00

1,880

BTC

30

30

30

-1.5

-4.76

10

CAN

12.4

12

12.4

0.3

2.48

9,290

CII

27

26.4

27

0.2

0.75

65,950

CLC

17.8

17.4

17.4

-0.4

-2.25

2,000

CNT

14.6

13.8

14.6

0.1

0.69

24,860

COM

33.6

32.2

32.2

-1.4

-4.17

5,130

CYC

17.2

16.4

17.2

0

0.00

22,460

DCC

12.5

12.3

12.3

-0.6

-4.65

13,510

DCL

53

51.5

53

-0.5

-0.93

10,920

DCT

10.8

10.5

10.8

0

0.00

26,270

DDM

17.9

16.8

17.9

-3.9

-17.89

90,380

DHA

21.5

20

21.5

0.7

3.37

73,200

DHG

115

113

114

-1

-0.87

10,720

DIC

18.5

18.2

18.2

-0.9

-4.71

30,430

DMC

60

59

60

-2

-3.23

14,370

DNP

11.4

11.2

11.2

-0.4

-3.45

7,980

DPC

12.5

12.1

12.5

-0.2

-1.57

1,010

DPM

51.5

50.5

51.5

-0.5

-0.96

141,070

DPR

44.7

44.7

44.7

-2.3

-4.89

26,210

DQC

20.5

20

20.1

-0.9

-4.29

59,280

DRC

25.7

24.6

25

-0.8

-3.10

15,650

DTT

12.2

11.7

11.7

-0.4

-3.31

5,650

DXP

29.1

27.9

29

1

3.57

69,670

DXV

9.7

9.6

9.6

-0.1

-1.03

9,470

FBT

17.8

17.5

17.8

-0.2

-1.11

75,010

FMC

13.6

13.1

13.6

0.1

0.74

16,100

FPC

19.5

19.4

19.4

-1

-4.90

1,750

FPT

77

75

76.5

-1.5

-1.92

175,620

GIL

16.5

16.1

16.5

0

0.00

13,270

GMC

16.7

15.9

16.7

0.3

1.83

810

GMD

42

39.8

39.8

-2

-4.78

112,720

GTA

11.9

11.4

11.9

-0.1

-0.83

8,940

HAP

23.9

23.1

23.9

0

0.00

35,540

HAS

13.5

13

13.5

0

0.00

2,880

HAX

20.9

20.9

20.9

-1

-4.57

470

HBC

18.4

17.5

18.4

0.8

4.55

62,370

HBD

12.9

12.3

12.4

-0.5

-3.88

2,790

HDC

24

23.8

24

0.1

0.42

31,850

HMC

18

17.6

18

-0.4

-2.17

22,950

HPG

40.5

39.8

39.9

-1.6

-3.86

378,030

HRC

31.6

31.6

31.6

-1.6

-4.82

12,270

HSI

16.6

15.9

16

-0.6

-3.61

7,560

HT1

15.5

15.2

15.2

-0.8

-5.00

32,590

HTV

12.1

11.9

12

0

0.00

32,300

ICF

9.8

9.5

9.7

-0.3

-3.00

15,940

IFS

10.3

9.9

10

-0.3

-2.91

8,000

IMP

85

83.5

84

1

1.20

3,560

ITA

32.3

32

32.3

1.5

4.87

1,025,680

KDC

38.7

37

38.7

1.8

4.88

85,150

KHA

12.3

12

12

-0.5

-4.00

19,600

KHP

11.6

11.1

11.2

-0.4

-3.45

60,800

KMR

9

8.9

9

0

0.00

25,130

L10

14.2

13.1

13.4

-0.3

-2.19

2,660

LAF

16.2

15.7

15.7

-0.8

-4.85

90,280

LBM

26.9

25.5

26.9

1.2

4.67

125,560

LGC

24.9

23.8

24.5

-0.5

-2.00

21,150

LSS

15.1

14.5

14.5

-0.7

-4.61

23,020

MAFPF1

4.7

4.5

4.7

0

0.00

20,040

MCP

14.4

13.3

13.3

-0.7

-5.00

13,080

MCV

12

11.9

12

-0.5

-4.00

74,620

MHC

12.8

12.8

12.8

-0.6

-4.48

45,600

MPC

13.4

13

13

-0.6

-4.41

93,260

NAV

14.4

14.3

14.4

-0.5

-3.36

12,340

NHC

46.5

43

46.5

2.2

4.97

32,950

NKD

33.6

31.9

33.5

0

0.00

44,220

NSC

30

28.7

30

0

0.00

36,980

NTL

45

40.9

45

2

4.65

50,330

PAC

42.8

42

42.8

-1.1

-2.51

10,710

PET

19.7

19

19.5

-0.3

-1.52

38,290

PGC

12.3

12

12.3

-0.3

-2.38

36,630

PIT

16.6

16.4

16.5

-0.5

-2.94

5,280

PJT

14

13.9

14

-0.4

-2.78

11,170

PMS

19.5

19.5

19.5

0.5

2.63

20

PNC

11

10.7

11

0.3

2.80

6,120

PPC

24.3

23.8

24

-1

-4.00

229,200

PRUBF1

4.5

4.3

4.3

-0.2

-4.44

51,160

PVD

84

80

83

1

1.22

83,340

PVT

20.5

20

20

-1

-4.76

222,460

RAL

33.8

33.4

33.4

-0.4

-1.18

2,000

REE

28.9

27.5

28.9

0.9

3.21

253,650

RHC

19

18.3

18.5

-0.7

-3.65

30,290

RIC

17

16.4

16.5

-0.5

-2.94

1,610

SAF

22.5

22.1

22.5

-0.7

-3.02

1,100

SAM

18.2

17.9

18.1

-0.3

-1.63

340,040

SAV

13.3

13

13

0.1

0.78

1,310

SBT

10.3

10.1

10.2

-0.1

-0.97

93,840

SC5

30

29.7

30

-1

-3.23

31,200

SCD

18.4

18.4

18.4

0.3

1.66

250

SDN

21.5

19.9

19.9

-1

-4.78

1,180

SFC






0

SFI

49.5

46.5

48.8

0.5

1.04

17,550

SFN

12.4

12

12.3

-0.1

-0.81

6,510

SGC

14.5

13.7

14.4

0.1

0.70

3,020

SGH

87

87

87

3

3.57

20

SGT

28

26.2

28

0.5

1.82

86,830

SHC

38.7

35.2

38.7

1.8

4.88

23,040

SJ1

16.5

16.2

16.5

-0.1

-0.60

920

SJD

15.5

15.3

15.3

-0.4

-2.55

17,430

SJS

61

56.5

61

2

3.39

252,560

SMC

26.5

25.3

25.3

-1.2

-4.53

13,960

SSC

24.5

22.8

24.5

0.6

2.51

23,410

SSI

34.8

33.3

33.7

-1.3

-3.71

907,110

ST8

33.1

31.5

32

-1.1

-3.32

5,210

STB

22

21.7

22

-0.4

-1.79

998,420

SZL

61

58.5

58.5

-3

-4.88

51,270

TAC

32

32

32

-1.6

-4.76

14,910

TCM

10.8

10.4

10.8

-0.1

-0.92

22,930

TCR

11.2

10.8

10.8

-0.5

-4.42

9,390

TCT

92.5

91

92.5

-3

-3.14

4,200

TDH

29.4

27.9

29.4

1.4

5.00

92,240

TMC

29.4

29.2

29.4

0.1

0.34

5,520

TMS

39.8

38.5

39.4

-0.1

-0.25

5,250

TNA

21

19.6

20.1

-0.3

-1.47

3,710

TNC

11.5

11.2

11.2

-0.4

-3.45

34,410

TPC

8.4

8

8.4

0

0.00

59,920

TRC

37.4

37.4

37.4

-1.9

-4.83

11,680

TRI

13.2

12.6

12.7

-0.5

-3.79

11,560

TS4

11.3

11.2

11.3

-0.4

-3.42

16,280

TSC

58.5

58

58

-3

-4.92

54,990

TTC

10.8

10.3

10.3

-0.5

-4.63

40,100

TTF

21

20.1

20.6

-0.4

-1.90

8,150

TTP

21

20.6

21

0.4

1.94

136,250

TYA

16.2

15.5

16

-0.2

-1.23

61,600

UIC

12.2

11.7

12

0

0.00

13,030

UNI

16

15.2

16

0.3

1.91

4,940

VFC

10.5

10.2

10.2

-0.4

-3.77

26,360

VFMVF1

10

9.5

10

0

0.00

341,600

VFMVF4

5.6

5.5

5.6

-0.1

-1.75

71,830

VGP

24.4

24.3

24.3

-1.2

-4.71

5,970

VHC

25.5

24

25.5

0.5

2.00

25,600

VHG

10.7

10.3

10.7

-0.1

-0.93

45,920

VIC

82.5

79

82.5

0.5

0.61

75,770

VID

10.5

10.3

10.3

-0.3

-2.83

42,720

VIP

15.1

14.9

14.9

-0.4

-2.61

81,630

VIS

26.4

25.5

26.4

0.4

1.54

107,190

VKP

9.6

9.4

9.5

-0.2

-2.06

10,130

VNA

27.5

27.1

27.1

-1.4

-4.91

59,230

VNE

9.5

9.2

9.3

-0.2

-2.11

62,520

VNM

82.5

80

81

-2

-2.41

172,550

VNS

23.6

22.8

23.1

-0.6

-2.53

28,180

VPK

10.1

9.8

10

-0.2

-1.96

1,280

VPL

96

94

95.5

-1

-1.04

54,000

VSC

70

68.5

68.5

-3

-4.20

11,860

VSG

14.9

14.5

14.9

-0.3

-1.97

19,510

VSH

28.5

27.8

28.5

0.2

0.71

110,390

VTA

9.6

9.2

9.2

-0.4

-4.17

9,610

VTB

15.9

15.4

15.9

-0.3

-1.85

10,200

VTC

12.7

12

12.2

0.1

0.83

6,980

VTO

15.4

15.1

15.4

-0.3

-1.91

277,090


ATPVietnam