Wednesday, November 5, 2008 |

Giá vàng trong nước khó tăng hơn nữa

Những thông tin đầu tiên trong ngày bẩu cử Tổng thống Mỹ khiến giá vàng thế giới tăng mạnh nhất trong 6 tuần qua. Tại Việt Nam, do không còn liên thông với thị trường thế giới, sáng nay 5/11, giá các loại vàng miếng trong nước có mức tăng không đồng đều.

Trong khi vàng SJC tại Hà Nội tăng khoảng 23.000 đồng/chỉ so với 16h ngày 4/11, lên mức 1,67 triệu đồng/chỉ (mua vào) - 1,69 triệu đồng/chỉ (bán ra); thì vàng Bảo Tín Minh Châu tăng có 13.000 đồng/chỉ, lên 1,67 triệu đồng/chỉ - 1,678 triệu đồng/chỉ.

Ông Trần Hữu Đang, phụ trách kinh doanh của Bảo Tín Minh Châu cho hay: "Ảnh hưởng bởi sự điều chỉnh của giá vàng thế giới, nhưng giá vàng trong nước khó tăng mạnh hơn nữa. Tất cả tuỳ thuộc vào sức cầu trên thị trường, nhưng giao dịch sáng nay diễn ra rất chậm. Người muốn bán thì nghĩ giá vàng còn tăng cao nên chờ đợi, người muốn mua lại mong giá vàng giảm sâu mới mua vào”.

Trái ngược với thị trường trao tay, tính đến 10h30 sáng nay, toàn sàn vàng ACB đã có 115.800 lượng vàng chuyển nhượng thành công, tương ứng giá trị 1.825 tỷ đồng. Tính ra mỗi chỉ vàng khớp ở mức giá 1,585 triệu đồng.

Trên thế giới, kết thúc phiên giao dịch hôm qua, giá vàng giao vào tháng 12 tại New York tăng 30,5USD (tương đương 4,2%), lên mức 757,3 USD/ounce. Đây là mức tăng mạnh nhất của loại vàng này kể từ ngày 22/9. Cũng tại thị trường này, giá vàng giao ngay tăng 39,1 USD, lên mức 761,1 USD/ounce.

Theo đánh giá của một số chuyên gia, giá vàng thế giới tăng mạnh như vậy có thể chỉ là ngắn hạn bởi suy thoái kinh tế toàn cầu sẽ khiến nhu cầu hàng hóa giảm bớt. Hiện tại, giá vàng giao ngay trên trang Kitco.com giảm nhẹ, xuống còn 758,3 USD/ounce.

Tỷ giá USD/VND đạt mốc 17.150 VND

Những biến động về giá USD trên thị trường tự do mấy ngày gần đây hoàn toàn đi ngược lại nhận định của các lãnh đạo ngân hàng thời gian trước về khả năng tỷ giá USD/VND khó vượt mốc 17.000 VND.

Sáng nay, một số cửa hàng buôn bán ngoại tệ lớn trên phố Hà Trung niêm yết tỷ giá USD/VND ở mức: 17.050 VND (mua vào) - 17.150 VND (bán ra), tăng 50 VND so với sáng qua.

Một vài cửa hàng ngoại tệ nhỏ lẻ khác lại điều chỉnh tỷ giá USD/VND giảm nhẹ, xuống mức 17.050 VND - 17.120 VND, giảm 20 VND so với mức giá bán ra 17.140 VND của chiều qua.

Khảo sát qua phần đông cửa hàng kinh doanh ngoại tệ tại Hà Nội, 17.150 VND/ 1 USD là mức giá bán ra vào sáng nay. Đây được xem là hiệu ứng nhất thời sau khi Ngân hàng Nhà nước công bố hàng loạt các biện pháp nới lỏng chính sách tiền tệ và có cả yếu đầu cơ nhằm trục lợi.

Theo công bố từ Ngân hàng Nhà nước, tỷ giá bình quân liên ngân hàng hôm nay là 16.513 VND/ 1USD, tăng 1 VND so với hôm qua; tỷ giá giao dịch của ngân hàng thương mại lên mức: 16.833 VND - 16.843 VND.

Biến động của USD trên thị trường thế giới trong cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ có vẻ như không ảnh hưởng tới thị trường Việt Nam. Hôm qua, đồng Euro đã tăng khoảng 3,1% trước khả năng ứng cử viên Barack Obama sẽ trở thành vị tổng thống thứ 44 của Mỹ. Cụ thể, cuối ngày hôm qua tại New York, 1 Euro tương đương với 1,2966 USD, so với mức 1 Euro đổi được 1,2643 USD cách đó một ngày.


Giá dầu đảo chiều tăng hơn 70 USD/thùng

USD lao dốc khiến giá dầu thô thế giới tăng mạnh vào phiên giao dịch hôm qua. Giá dầu thô giao vào tháng 12 tại New York tăng 6,62 USD/thùng (tương đương 10%), lên mức 70,53 USD/thùng. Đây là cao nhất của giá dầu kể từ ngày 21/10.
Giá dầu thô Brent giao tháng 12 tại thị trường London kết thúc ngày giao dịch với mức tăng 5,96 USD/thùng (9,9%), dừng ở mức 66,44 USD/thùng.
Ngược lại, tại thị trường Singapore, nơi cung ứng nhiên liệu cho Việt Nam, giá xăng RON 92 chỉ còn 55,25 USD/thùng, dầu diezen 0,25S là 77,7 USD/thùng và ma-zut 248,83 USD/tấn.

N

Tiếp tục duy trì đà tăng đã có từ 5 phiên giao dịch trước, ngay phiên giao dịch mở cửa xác định giá thị trường nhiều cổ phiếu đã đồng loạt tăng giá trần kéo Vn-Index tăng mạnh 16,35 điểm với giao dịch tăng vọt so với đợt 1 phiên giao dịch ngày hôm qua.

Trên bảng giao dịch điện tử dư mua kín ở khắp các mã cổ phiếu trong khi đó lượng đặt bán chỉ rải rác ở một số mã cổ phiếu.

Mức tăng điểm mạnh tiếp tục được duy trì cho đến hết phiên, Vn-Index hoàn tất phiên tăng điểm ấn tượng với số điểm tăng thêm là 16.39 điểm (tương đương tăng 4,53%) đóng cửa ở mức 377,83 điểm.

Do sức mua ồ ạt trong khi bên bán có phần chững lại đã khiến giao dịch toàn phiên giảm so với phiên giao dịch ngày hôm qua. Toàn thị trường có 16,29 triệu đơn vị giao dịch trị giá 488,72 tỷ đồng.

Trong tổng số 167 mã niêm yết trên Hose, có đến 156 mã tăng giá trong đó 115 mã tăng trần, 4 mã giữ mức tham chiếu và chỉ còn lại 7 mã giảm giá trong đó 3 mã giảm giá sàn.

Nhóm cổ phiếu có mức vốn hoá lớn nhất sàn Hose phiên này đồng loạt tăng giá trần với lượng dư mua lớn trong khi dư bán bằng 0.

Mã blue-chips mới trên sàn Hose, PVF sau 2 phiên đầu tiên giảm giá đã tăng trần trở lại 1.100 đồng lên 23.900 đồng/CP với giao dịch sôi động trên 1 triệu cổ phiếu.

Có mặt trong nhóm giảm giá phiên này là 2 tân binh HLA và OPC, cả 2 mã này đều giảm sàn, các mã giảm giá khác gồm CYC, SDN, TCR và COM.

Cổ phiếu ACL phiên này giảm giá nhưng do phải điều chỉnh giá trong ngày giao dịch không hưởng quyền trả cổ tức đợt 2/2008. Cổ phiếu khác cũng trong ngày giao dịch không hưởng quyền là DHG nhưng kết thúc phiên mã này vẫn tăng 3.000 đồng/CP.

Về giao dịch, STB vẫn dẫn đầu với 2,59 triệu cổ phiếu, tiếp theo là DPM với 1,1 triệu, PVF với 1,09 triệu.

Bên sàn Hà Nội, kết thúc phiên giao dịch Hastc-Index tăng 6,59 điểm lên 125,23 điểm. Khối lượng giao dịch tăng mạnh hơn so với phiên giao dịch trước với 8,16 triệu cổ phiếu khớp lệnh, đạt 220,12 tỷ đồng.

Bình quân trên sàn ngoài HSC không giao dịch, 8 cổ phiếu giảm giá là VE9, VC6, VBH, SPP, NGC, NPS, DST, SDS. Ngoài SPP bị bán sàn khối lượng lớn và chỉ có 100 cổ phiếu được mua vào cuối phiên, giảm 1.700 đồng so với giá tham chiếu, các cổ phiếu còn lại chỉ giảm nhẹ quanh ngưỡng 100 - 800 đồng/CP. Cổ phiếu SPP luôn bị bán sàn trong thời gian gần đây và có khối lượng khớp lệnh rất thấp.

Còn lại, 146 cổ phiếu tăng giá với mức tăng mạnh nhất thuộc về cổ phiếu VSP của CTCP Đầu tư và vận tải dầu khí Vinashin. VSP phiên này tăng 6.500 đồng lên 100.600 đồng/CP. Các cổ phiếu tăng giá khác là MIC, CCM, RCL và SD5.

Các cổ phiếu giao dịch nhiều nhất phiên là ACB (giao dịch 1,87 triệu cổ phiếu), VCG (983.500 CP), TBC (742.600 CP). Cổ phiếu KLS phiên này mặc dù có dư mua gần 3 triệu CP song giao dịch chỉ 51.000 đơn vị.

Các cổ phiếu Sông Đà tiếp tục tạo “lũ” trên sàn Hà Nội với lượng dư mua trần lớn tại hầu hết các mã mở đầu bằng chữ “SD” (trừ mã SDS của CTCP Xây lắp và đầu tư Sông Đà).

Vn-Index leo lên trên đáy cũ

|

Chứng khoán sau phiên sáng nay đã có ngày tăng điểm thứ 6 liên tiếp, đồng thời cũng là ghi nhận mức tăng mạnh nhất trong 3 tuần trở lại đây. Vn-Index đóng cửa tại 377,83 điểm, bứt xa hơn 11 điểm so với đáy cũ 366.

Thông tin Ngân hàng nhà nước nới lỏng lãi suất tiếp tục hỗ trợ thị trường chứng khoán trong phiên giao dịch sáng nay. Dư âm tăng điểm từ phiên hôm qua đã khiến các mã tại HOSE đồng loạt bật xanh ngay sau giờ mở cửa. Sau đợt một, Vn-Index tăng gần hết biên độ, mở cửa tại 377,79 điểm, cao hơn tham chiếu 16,35 điểm, ứng với 4,52%. Số cổ phiếu sang tên trong đợt một đạt 5,02 triệu, giá trị tương ứng 154,4 tỷ đồng.

Đà đi lên của thị trường tiếp tục được giữ vững trong thời gian khớp lệnh liên tục. Không có sự phân hóa đáng kể nào ở giá cổ phiếu. Ngoại trừ một số mã nhỏ và trung bình đi xuống hoặc đứng giá, toàn bộ các cổ phiếu tại HOSE đều tăng.

Phiên tăng điểm sáng nay là mạnh nhất trong chuỗi 6 phiên trở lại đây. Ảnh: Hoàng Hà.
Phiên tăng điểm sáng nay là mạnh nhất trong gần 20 ngày gần đây. Ảnh: Hoàng Hà.

Tính tới 10h sáng nay, nhóm 20 cổ phiếu đứng đầu thị trường về giá trị vốn hóa cũng hòa cùng xu hướng tăng của Vn-Index, trong đó có tới 17 mã tăng trần. 3 blue-chip được săn đón nhiều nhất là SSI, STB, và PPC với lượng dư mua giá trần lần lượt là 1,7 triệu, 670 nghìn và 580 nghìn.

Theo ông Hoàng Xuân Quyền, Giám đốc Khối Phân tích Đầu tư Công ty Chứng khoán Tân Việt, bên cạnh việc giá cổ phiếu ở mức thấp, lãi suất cơ bản được cắt giảm, cùng với diễn biến ổn định của chứng khoán thế giới trước thềm bầu cử Tổng thống Mỹ là các tác nhân đáng kể cho chuỗi phiên tăng của thị trường.

Tuy nhiên, ông Quyền nhận định, các yếu tố trên chủ yếu vẫn mang yếu tố tâm lý. Việc lãi suất cơ bản được điều chỉnh sẽ cần từ 3 tới 6 tháng để có thể phản ánh vào kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Hiện tại, tình hình vĩ mô không quá tệ nhưng cũng chưa có nhiều động lực để thị trường thực sự khởi sắc mạnh mẽ.

Phòng phân tích Công ty Chứng khoán SME, cũng có cùng quan điểm khi cho rằng tin hạ lãi suất dù là tin tốt nhưng việc chứng khoán tăng mạnh trong 2-3 phiên gần đây vẫn gây bất ngờ cho nhà đầu tư và giới chuyên môn. Thị trường có lẽ sẽ cần vài phiên giao dịch nữa để kiểm chứng lại xu thế tăng hiện tại.

Kết thúc đợt khớp lệnh thứ hai, Vn-Index gần như không thay đổi so với đợt một. Chỉ số này vẫn nằm tại 377,72 điểm, cao hơn tham chiếu 16,28 điểm, tương đương 4,5%. Lượng cổ phiếu trao tay tính tới hết đợt hai đạt 14,05 triệu, giá trị 398,35 tỷ đồng.

Phiên giao dịch kết thúc sau khoảng thời gian ngắn ngủi của đợt khớp định kỳ cuối cùng. Vn-Index đóng cửa tại 377,83 điểm, đi lên 4,53%, tương ứng 16,39 điểm. Như vậy, sau khi tạo đáy mới 322 điểm, Vn-Index đã tăng liền 6 phiên để bứt khỏi mức đáy cũ 366 điểm.

Tổng khối lượng thực hiện đạt 16,29 triệu chứng khoán, giá trị 488,71 tỷ đồng. Trong đó, giao dịch thỏa thuận đóng góp 906 nghìn cổ phiếu, giá trị 53 tỷ đồng.

Toàn sàn có 156 mã tăng, 7 mã giảm, và 4 cổ phiếu đứng giá.

Khối ngoại phiên này mua vào 1,62 triệu và bán ra 2,13 triệu cổ phiếu và chứng chỉ quỹ. Như vậy, so với những phiên trước nhà đầu tư nước ngoài giao dịch trầm lắng hơn và mức chênh lệch giữa mua và bán cũng được thu hẹp đáng kể.

Tại sàn Hà Nội, HaSTC-Index được cộng thêm 6,59 điểm, tương ứng với 5,55%, chốt tại 125,23 điểm. Lượng cổ phiếu trao tay toàn sàn đạt 9,19 triệu, giá trị 256,14 tỷ đồng.

Chứng khoán Mỹ tăng vọt khi người dân bắt đầu bỏ phiếu để lựa chọn tân Tổng thống, người được hy vọng sẽ lèo lái quốc gia vượt qua khỏi tình trạng suy thoái hiện nay.

Sau phiên 4/11, chỉ số Dow Jones lên 3,28%, đóng cửa tại 9.655,28 điểm. Chỉ số Nasdaq tăng 3,12%, kết thúc ngày giao dịch tại 1.780,12 điểm. Chỉ số Standard & Poor 500 (S&P 500) chốt tại 1.005,75 điểm, cao hơn phiên trước 4,08%.

Theo các chuyên gia, cuộc bầu cử Tổng thống có tác động tích cực đến kết quả của chứng khoán Mỹ những ngày gần đây. Bất kể ai thắng đi nữa, vị tân Tổng thống sẽ đều mang đến một sự điều hành mới, và cùng phải đối mặt với kinh tế đang suy thoái. Hy vọng vào việc Tổng thống mới sẽ có những chương trình cải cách kinh tế, ổn định thị trường tài chính và tiền tệ là lý do khiến nhà đầu tư mua vào trong ngày hôm qua.

Giới chứng khoán hy vọng một nhiệm kỳ mới mở ra sẽ tạo ra những thay đổi lớn giúp phố Wall và thị trường tài chính thoát khỏi cuộc khủng hoảng hiện tại. Ảnh: Worldpress.com.
Giới chứng khoán hy vọng trong nhiệm kỳ Tổng thống mới sẽ có những thay đổi giúp phố Wall và thị trường tài chính thoát khỏi cuộc khủng hoảng hiện tại. Ảnh: Worldpress.com.

Dù phố Wall dường như có cảm tình hơn với ứng viên đảng Cộng hòa, John McCain hơn, một số nghiên cứu lại chỉ ra, chứng khoán thường đạt được mức tăng ấn tượng nếu Tổng thống là người của đảng Dân chủ. Một số thống kê khác còn cho thấy, phố Wall tăng trưởng mạnh nhất khi một đảng nắm giữ nhà trắng, và một đảng điều hành Quốc hội.

Cùng ngày, cổ phiếu tài chính tăng mạnh do tờ Wall Street Journal cho hay, Bộ Tài chính có thể mua lại cổ phần trong những tập đoàn tài chính lớn, bao gồm các nhà bảo hiểm trái phiếu và một số công ty khác, như General Electric, và CIT Group.

Phiên hôm qua, khối công nghệ cũng chứng kiến cổ phiếu của Intel, Microsoft, Dell hay Yahoo cùng tăng điểm mạnh mẽ.

Dầu thô tăng 6,62 đôla, từ đó chốt tại 70,53 đôla một thùng.

Chứng khoán châu Á, cũng trải qua một phiên tăng. Trong đó, nhờ đồng yên mất giá so với đồng đôla, cổ phiếu của các nhà xuất khẩu như Honda, Sony, hồi phục mạnh. Ngoài ra, chứng khoán của 2 ngân hàng hàng đầu là Mitsubishi UFJ và Mizuho tiếp tục khởi sắc cũng góp phần đẩy chỉ số Nikkei 225 nhẩy vọt 6,27%.

Chỉ số KOSPI của Hàn Quốc được cộng thêm 2,15%. Chỉ số Hanghai Composite của Trung Quốc sụt 0,76%. Chỉ số Hang Seng của Hong Kong tăng nhẹ 0,28%.

Tại châu Âu, cả ba thị trường hàng đầu đều có những bước tiến đáng kể. Chỉ số FTSE 100 tiến 4,42%. Chỉ số DAX của Đức tăng 5%. Chỉ số CAC 40 của Pháp lên thêm 4,62%.

Tính tới 9h20 sáng nay 5/11, song song với cuộc bầu cử tại Mỹ, giới đầu tư tại châu Á cũng được chứng kiến các chỉ số chính đồng loạt đi lên. Chỉ số Nikkei 225 tăng 2,87%. Chỉ số Hang Seng lên 4,6%. Chỉ số Shanghai Composite khởi sắc 2,71%. Chứng khoán Hàn Quốc ghi nhận mức lên điểm 3,64% của chỉ số KOSPI.

Như vậy chứng khoán Việt Nam đã chính thức có phiên giao dịch thứ 6 liên tiếp tăng điểm và phiên này cũng là phiên tăng điểm có biên độ mạnh nhất trong 6 phiên này khi cổ phiếu niêm yết ồ ạt tăng giá.

Mở cửa phiên giao dịch hàng loạt lệnh ATO xuất hiện trên bảng giao dịch điện tử và với xu hướng tăng mạnh hôm nay thì hầu hết cổ phiếu sẽ được khớp ở mức giá trần khi kết thúc đợt xác định giá mở cửa.

Và đúng như vậy cổ phiếu đồng loạt tăng giá trần khi kết thúc đợt 1 và chỉ số VN-Index tăng mạnh 16,35 điểm (tương đương tăng 4,52%) lên 377,79 điểm. Điều đáng chú ý là khối lượng giao dịch đã có chiều hướng tăng mạnh với hơn 5 triệu đơn vị được chuyển nhượng với giá trị là 154,46 tỷ đồng. Gấp đôi giao dịch trong đợt 1 hôm qua.

Sức mua tăng mạnh khiến bên bán quyết định giữ lại cổ phiếu chờ đợi thêm mức giá mới cao hơn có thể, trên bảng giao dịch điện tử hiện thị cho thấy dư mua kín ở khắp các mã cổ phiếu trong khi đó lượng đặt bán chỉ rải rác ở một số mã cổ phiếu.

Mức tăng điểm mạnh tiếp tục được duy trì hết đợt khớp lệnh liên tục, chỉ số VN-Index sau đợt này vẫn tăng mạnh 16,28 điểm (Tương đương tăng 4,5%) lên 377,72 điểm. Giao dịch có phần giảm do lượng bán ra ít và có hơn 14 triệu đơn vị được giao dịch qua đợt này với giá trị là 398,35 tỷ đồng.

Lệnh ATC được đặt vào cuối giờ giao dịch và chung cuộc chỉ số VN-Index hoàn tất phiên tăng điểm ấn tượng với số điểm có được trong phiên giao dịch hôm nay là 16.39 điểm (tương đương tăng 4,53%) đóng cửa ở mức 377,83 điểm.

Tổng khối lượng cổ phiếu và chứng chỉ quỹ được khớp lệnh phiên này giảm nhẹ so với phiên trước đó do lượng bán ra hạn chế và có gần 15,4 triệu đơn vị được khớp lệnh thành công với giá trị là 435,7 tỷ đồng. Như vậy đã giảm mất 17% về khối lượng và 14% về giá trị.

Có đến 94% số mã cổ phiếu niêm yết phiên này tăng giá, cụ thể trong tổng số 163 mã cổ phiếu và 4 chứng chỉ quỹ niêm yết đã có 156 mã tăng giá (trong đó 115 mã tăng trần), 4 mã giữ mức tham chiếu và chỉ còn lại 7 mã giảm giá (trong đó 3 mã giảm giá sàn).

Nhóm cổ phiếu có mức vốn hoá lớn nhất sàn HOSE phiên này đồng loạt tăng giá trần với lượng dư mua còn nhiều trong khi dư bán ở tất cả các mã này đều không có.

Có thể điểm qua các cổ phiếu quen thuộc nhóm này tăng trần như STB của Sacombank, DPM của Đạm Phú Mỹ, VNM của Vinamilk, SSI của Chứng khoán Sài Gòn, FPT của Tập đoàn FPT, PVD của PV Drilling, HPG của Hoà Phát...

Trong khi đó cổ phiếu đang thu hút sự quan tâm của giới đầu tư là PVF của Tổng Công ty Tài chính Cổ phần Dầu Khí – PVFC sau 2 phiên đầu tiên giảm giá đã tăng trần trở lại (+1.100 đồng lên 23.900 đồng/cp).

Một số mã cổ phiếu tách khỏi xu hướng thị trường khi giảm giá phiên này đều là các cổ phiếu nhỏ trong đó có 2 cổ phiếu lên sàn hôm cuối tháng 10 vừa qua là HLA của Hữu Liên Á Châu và OPC của Dựoc OPC đều giảm sàn. Ngoài ra còn có CYC của Gạch men Chang Yih, SDN của Sơn Đồng Nai, TCR của Gốm sứ Taiceira và COM của COMECO.

Cổ phiếu ACL của XNK Thuỷ sản Cửu Long An Giang phiên này giảm giá nhưng do phải điều chỉnh giá trong ngày giao dịch không hưởng quyền trả cổ tức đợt 2/2008. Nếu bỏ qua yếu tố này ACL vẫn tăng trần và như vậy phiên này chỉ có 6 mã giảm giá. Cổ phiếu khác cũng trong ngày giao dịch không hưởng quyền là DHG của Dược Hậu Giang.

Về khối lượng giao dịch của các cổ phiếu, STB vẫn vững vàng ngôi đầu (2,59 triệu cp), DPM (1,1 triệu cp), PVF (gần 1,1 triệu cp), VIP (0,63 triệu cp), PVD (0,6 triệu cp), VSH (0,54 triệu cp)...

Chi tiết giao dịch ngày 5/11:
(Đơn vị giá: 1.000đ, Đơn vị KL: 1 CP)

Mã CK

Giá cao nhất

Giá thấp nhất

Giá đóng cửa

Thay đổi

%Thay đổi

Khối lượng

ABT

28.2

28.2

28.2

1.3

4.83

3,830

ACL

33.7

33.7

33.7

-0.4

-1.17

34,050

AGF

19.5

19

19.5

0.8

4.28

49,540

ALP

10.8

10.5

10.8

0.5

4.85

100,640

ALT

26

26

26

1

4.00

1,200

ANV

22.9

22.8

22.9

1

4.57

267,320

ASP

11.8

11.7

11.8

0.5

4.42

46,740

BBC

17.2

17.2

17.2

0.8

4.88

56,760

BBT

6.5

6.5

6.5

0.3

4.84

33,880

BHS

16

15.4

15.5

0.1

0.65

10,400

BMC

89

89

89

4

4.71

4,230

BMI

20.7

20.7

20.7

0.9

4.55

5,400

BMP

38.5

38.5

38.5

1.8

4.90

26,600

BPC

12.6

12.3

12.6

0.6

5.00

14,090

BT6

60

58

58

0.5

0.87

27,820

BTC

28.3

28

28.2

1.2

4.44

4,470

CAN

12.9

12.2

12.9

0.2

1.57

38,450

CII

30.1

30

30.1

1.4

4.88

106,800

CLC

17.7

16.9

17.7

0.8

4.73

6,950

CNT

13.3

13.3

13.3

0.6

4.72

12,160

COM

37

35.2

35.2

-1

-2.76

7,530

CYC

14.5

13.6

13.6

-0.7

-4.90

115,740

DCC

12.7

12.1

12.7

0.6

4.96

30,720

DCL

35.7

35.6

35.7

1.7

5.00

110,030

DCT

10.6

10.2

10.5

0.3

2.94

65,530

DDM

16.5

16

16.5

0.7

4.43

117,540

DHA

23.1

23.1

23.1

1.1

5.00

38,170

DHG

122

120

121

3

2.54

41,170

DIC

17.8

17.6

17.8

0.8

4.71

59,550

DMC

58.5

58

58.5

2.5

4.46

114,440

DNP

11.5

11

11.5

0.5

4.55

10,820

DPC

12.5

11.4

12.5

0.5

4.17

1,820

DPM

49.7

49

49.7

2.3

4.85

1,100,010

DPR

38.8

38.8

38.8

1.8

4.86

12,130

DQC

20

20

20

0.9

4.71

20,130

DRC

25.7

25.7

25.7

1.2

4.90

14,440

DTT

12

12

12

0.2

1.69

1,600

DXP

28.6

28

28.6

1.3

4.76

49,260

DXV

9.1

9

9.1

0.4

4.60

41,360

FBT

18.4

17.9

17.9

0.3

1.70

53,010

FMC

11.8

11.8

11.8

0.5

4.42

38,720

FPC

19.7

18.1

19.7

0.7

3.68

3,670

FPT

85.5

85.5

85.5

4

4.91

160,580

GIL

16.5

16.5

16.5

0.7

4.43

13,990

GMC

16.5

16.5

16.5

0.7

4.43

4,530

GMD

36.8

36.8

36.8

1.7

4.84

34,110

GTA

10.9

10.7

10.9

0.5

4.81

9,660

HAP

23.1

22.5

23.1

1.1

5.00

139,560

HAS

13.1

13

13.1

0.6

4.80

32,930

HAX

17.9

17

17.8

0.4

2.30

13,530

HBC

18.1

18.1

18.1

0.8

4.62

6,560

HBD

11.5

11.5

11.5

0.5

4.55

6,700

HDC

25

25

25

1.1

4.60

45,650

HLA

25

25

25

-1.3

-4.94

41,410

HMC

16.6

16.5

16.6

0.7

4.40

69,790

HPG

35.5

35.5

35.5

1.6

4.72

108,120

HRC

28.3

28.3

28.3

1.3

4.81

17,990

HSI

14.7

14

14.6

0.6

4.29

27,540

HT1

16.1

15.5

16

0.5

3.23

42,780

HTV

11.4

11.2

11.4

0.5

4.59

35,150

ICF

10

9.7

9.8

0.2

2.08

94,380

IFS

10

9.9

10

0.4

4.17

16,890

IMP

80.5

80.5

80.5

3.5

4.55

29,340

ITA

34.9

34.9

34.9

1.6

4.80

18,630

KDC

35.7

35.6

35.7

1.7

5.00

216,120

KHA

13.9

13.9

13.9

0.6

4.51

3,930

KHP

12.6

12.6

12.6

0.6

5.00

30,220

KMR

8.1

8

8.1

0.3

3.85

51,080

L10

13.6

13.5

13.6

0.6

4.62

5,560

LAF

14.1

14

14.1

0.6

4.44

54,460

LBM

24.5

23.6

23.8

0.2

0.85

125,230

LGC

19.4

19

19.3

0.5

2.66

12,960

LSS

16.2

16

16.2

0.7

4.52

57,880

MAFPF1

4.5

4.2

4.4

0

0.00

28,880

MCP

17.2

16.4

16.6

0.2

1.22

154,860

MCV

12.2

12

12.2

0.5

4.27

113,450

MHC

11.1

10.6

11.1

0.5

4.72

198,370

MPC

13.4

13.3

13.4

0.6

4.69

144,550

NAV

14.3

14.1

14.3

0.6

4.38

31,640

NHC

44.1

42.5

44.1

2.1

5.00

23,470

NKD

34.9

34.3

34.9

1.6

4.80

33,980

NSC

30.1

29

30.1

1.3

4.51

37,210

NTL

40.2

40.2

40.2

1.9

4.96

27,000

OPC

52

52

52

-2.5

-4.59

2,000

PAC

42.7

42

42

0.5

1.20

33,980

PET

20.1

20.1

20.1

0.9

4.69

28,220

PGC

13.3

13.1

13.2

0.3

2.33

30,270

PIT

16.5

16.5

16.5

0.7

4.43

14,840

PJT

13.8

13.8

13.8

0.6

4.55

10,520

PMS

19.9

19

19.9

0.9

4.74

1,500

PNC

12

11.8

11.9

0.4

3.48

5,400

PPC

25.7

25.7

25.7

1.2

4.90

53,390

PRUBF1

4.6

4.5

4.6

0.1

2.22

232,570

PVD

87

86

87

4

4.82

602,450

PVF

23.9

23.7

23.9

1.1

4.82

1,099,080

PVT

20.8

20.5

20.8

0.9

4.52

454,560

RAL

31

31

31

1.4

4.73

7,290

REE

28

27.9

28

1.3

4.87

351,510

RHC

19.8

18.9

19.8

0.9

4.76

4,000

RIC

15.4

15.4

15.4

0.7

4.76

5,790

SAF

19.5

19.5

19.5

0.9

4.84

3,630

SAM

19.5

19.5

19.5

0.9

4.84

124,120

SAV

12.5

12.3

12.4

0.1

0.81

11,120

SBT

10.1

10.1

10.1

0.4

4.12

147,940

SC5

28.6

28.6

28.6

1.3

4.76

23,950

SCD

18.5

18.5

18.5

0

0.00

1,220

SDN

19.9

19

19.9

-0.1

-0.50

190

SFC

38.5

38.5

38.5

1.8

4.90

2,130

SFI

53

53

53

2.5

4.95

7,280

SFN

11.6

11.3

11.6

0.3

2.65

4,300

SGC

14

12.8

13.6

0.2

1.49

11,010

SGH

86.5

86.5

86.5

4

4.85

410

SGT

31.3

30

31

1.1

3.68

145,470

SHC

28.6

28.6

28.6

1.3

4.76

15,310

SJ1

16.8

16.8

16.8

0.8

5.00

2,000

SJD

15.5

15.2

15.5

0.7

4.73

51,100

SJS

64

64

64

3

4.92

42,260

SMC

23.6

23.6

23.6

1.1

4.89

34,850

SSC

24.7

24.2

24.4

0.2

0.83

16,640

SSI

36.6

36.6

36.6

1.7

4.87

12,640

ST8

27.3

27.3

27.3

1.3

5.00

10,430

STB

24.2

24

24.2

1.1

4.76

2,587,200

SZL

59

57

58.5

1.5

2.63

10,710

TAC

31.3

31.3

31.3

1.4

4.68

9,130

TCM

10.3

10.2

10.3

0.4

4.04

69,780

TCR

11.2

10.7

11

-0.2

-1.79

115,190

TCT

97.5

97.5

97.5

4.5

4.84

7,130

TDH

35

35

35

1.6

4.79

10,560

TMC

27.3

26.2

27.3

1.3

5.00

23,070

TMS

41

40

41

1

2.50

670

TNA

20.5

20

20

0.3

1.52

3,410

TNC

12

11.9

12

0.5

4.35

66,720

TPC

9.2

9.2

9.2

0.4

4.55

10,430

TRC

33.6

33.6

33.6

1.6

5.00

93,030

TRI

11.9

11.8

11.9

0.5

4.39

27,280

TS4

11

10.8

11

0.5

4.76

38,090

TSC

56

53.5

55.5

1.5

2.78

76,760

TTC

10.8

10.5

10.7

0.2

1.90

35,660

TTF

19.2

19.2

19.2

0.9

4.92

16,880

TTP

23.1

23

23.1

1.1

5.00

70,880

TYA

15.4

15.4

15.4

0.7

4.76

46,030

UIC

12.6

12

12.6

0.6

5.00

51,780

UNI

16.2

15.8

16.2

0.7

4.52

21,960

VFC

10.7

10.7

10.7

0.5

4.90

14,310

VFMVF1

10.1

9.9

10.1

0.4

4.12

375,240

VFMVF4

5.4

5.3

5.4

0.2

3.85

158,200

VGP

24.2

24

24

0.7

3.00

5,850

VHC

20.5

19.9

20.1

0.3

1.52

8,930

VHG

9.7

9.5

9.5

0

0.00

64,080

VIC

78.5

78.5

78.5

3.5

4.67

13,990

VID

10.9

10.7

10.9

0.4

3.81

105,120

VIP

14.5

14

14.5

0.6

4.32

626,100

VIS

26.6

25.7

26.5

0.9

3.52

99,610

VKP

9.3

9.2

9.3

0.4

4.49

40,620

VNA

23.5

23.5

23.5

1.1

4.91

3,600

VNE

8.6

8.5

8.6

0.4

4.88

124,650

VNM

89

89

89

4

4.71

264,630

VNS

20.6

19

20

0.3

1.52

118,630

VPK

9.9

9.5

9.8

0.3

3.16

14,620

VPL

94.5

94.5

94.5

4.5

5.00

29,830

VSC

66

66

66

3

4.76

7,970

VSG

15.1

14.7

15.1

0.7

4.86

23,080

VSH

30.8

30.8

30.8

1.4

4.76

544,200

VTA

9

8.7

8.8

0

0.00

24,050

VTB

15.8

15

15.8

0.3

1.94

13,820

VTC

12.7

12.1

12.7

0.6

4.96

8,830

VTO

15.4

15.2

15.4

0.7

4.76

485,310

ATPVietnam