Ngày đầu tháng tồi tệ của chứng khoán Âu, Mỹ

Tuesday, December 2, 2008 |

Phố Wall trải qua một trong những phiên giảm tồi tệ nhất trước việc Chính phủ thừa nhận suy thoái cũng như các tin mới công bố tiếp tục cho thấy kinh tế Mỹ sẽ còn đi xuống trong thời gian tới.

Kết thúc phiên 1/12, chỉ số công nghiệp Dow Jones rơi 7,7% xuống mức 8.149,09 điểm. Chỉ số Nasdaq của các tập đoàn công nghệ chìm sâu 8,95%, đóng cửa tại 1.387,07 điểm. Mức giảm 8,94% trên chỉ số Standard & Poor 500 cũng tồi tệ không kém, từ đó đẩy chỉ số của các doanh nghiệp vừa và nhỏ xuống còn 816,21 điểm.

Tương ứng với tỷ lệ giảm 7,7%, số điểm trừ 680 điểm của Dow Jones tệ thứ 4 trong lịch sử tính theo điểm số. Tính từ đầu năm, chỉ số chính của 30 tập đoàn công nghiệp hàng đầu đã sụt 38,6%, hiện chỉ còn 57,5% giá trị so với đỉnh xác lập vào ngày 9/10/2007.

Sau chuỗi phiên đầy tích cực tuần trước, tin kinh tế bất lợi đã lại đưa nhà đầu tư phố Wall trở về với thực tại bấp bênh của nền kinh tế. Ảnh: cache.daylife.com.

Cổ phiếu giảm điểm trải dài trong nhiều nhóm ngành kinh tế. Từ công nghiệp sản xuất ôtô với Ford, General Motors, Chrysler; tới khối tài chính với Goldman Sachs, JP Morgan Chase, hãng vừa mua lại Washington Mutual và sẽ cắt giảm 9.200 việc làm tại ngân hàng này.

Tin xấu đầu tiên mà thị trường đón nhận là báo cáo doanh số mua hàng trong "Ngày thứ sáu đen tối" cũng như số liệu sản xuất èo uột tại Mỹ và nước ngoài.

Tuy nhiên, đà bán ra thực sự được "cài số tiến" khi Cục Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia (NBER) xác nhận nước Mỹ đang trong suy thoái, thực tại ám ảnh nhiều người trong thời gian qua. Theo NBER, suy thoái bắt đầu từ tháng 12/2007 và vẫn sẽ tồn tại trong thời gian tới.

Chiều cùng ngày, Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang, ông Ben Bernanke cho biết bất kể nỗ lực của Chính phủ nhằm khơi thông dòng tiền, nền kinh tế lớn nhất thế giới sẽ tiếp tục suy yếu trong thời gian tới.

Bộ trưởng Bộ Tài chính, ông Henry Paulson cũng phát biểu mức độ suy giảm kinh tế là đáng kể. Theo ông Paulson, trước tình hình trên Chính phủ dự kiến sẽ mở rộng chương trình hỗ trợ tài chính cho các tập đoàn.

Viện Quản lý Nguồn công bố chỉ số sản xuất trong tháng qua rơi xuống thấp nhất trong 26 năm, từ 38,9 của tháng 10 chỉ còn 36,2 trong tháng 11. Số liệu trên tệ hơn dự kiến của các nhà kinh tế. Sau khi không đổi trong tháng 9, chi tiêu cho xây dựng trong tháng 10 đi xuống 1,2%, tệ hơn dự báo giảm 1% của các chuyên gia.

Trước các đợt giảm giá rầm rộ vào "thứ sáu đen tối", ngày thứ sáu liền kề lễ tạ ơn, người tiêu dùng đổ xô tới các siêu thị. Tuy nhiên, quãng thời gian tốt đẹp trên với các nhà bán lẻ không kéo dài khi các thống kê chỉ ra chi tiêu trong kỳ nghỉ lễ năm nay sẽ chỉ lên khoảng 2,2%, thấp nhất trong 6 năm gần đây.

Ông Dean Barber, Chủ tịch tại Barber Financial Group, chứng khoán Mỹ sẽ còn biến động mạnh trong thời gian tới do các cuộc khủng hoảng tại thị trường nhà đất, tín dụng, lao động đều chưa có dấu hiệu kết thúc.

Báo cáo kinh tế tại các khu vực khác trên thế giới cũng tồi tệ không kém. Các cuộc khảo sát cho thấy hoạt động sản xuất tại Anh, các quốc gia sử dụng đồng euro, và Trung Quốc đang có bước lùi đáng kể.

Diễn biến bất lợi từ phố Wall đã châm ngòi cho một làn sóng bán tháo khác tại châu Âu. Chỉ số FTSE 100 của Anh trượt dốc 5,19%. Chỉ số DAX của Đức bị trừ 5,88%, chỉ số CAC 40 của Pháp thấp hơn tham chiếu 5,59%.

Do diễn ra sớm hơn thị trường Mỹ và châu Âu nên phiên đầu tuần của chứng khoán châu Á diễn ra không quá tồi tệ. Do đồng yen mất giá so với đôla, từ đó kéo tụt giá chứng khoán của các nhà xuất khẩu tại Nhật, chỉ số Nikkei 225 của nước này bị trừ 1,35%. Chứng khoán Hàn Quốc cũng trải qua phiên giảm với mức đi xuống 1,65% trên chỉ số KOSPI. Chỉ số Hang Seng của chứng khoán Hong Kong và Shanghai Composite của Trung Quốc tiến thêm lần lượt 2,07% và 1,25%.

Chứng khoán hai sàn đỏ lửa

|

Vn-Index sáng nay rớt mạnh hơn phiên hôm trước, mất 7,26 điểm (2,3%) để lùi sát hơn mốc 300. Thanh khoản ở mức thấp nhất trong hai tháng qua.

Chỉ số chứng khoán sàn TP HCM qua nửa giờ giao dịch đầu tiên ngập chìm trong sắc đỏ, với chưa đầy 10 mã đi lên. Rơi thẳng một mạch 8,67 điểm, tổng quỹ Vn-Index còn lại 305,95 điểm. Tuy nhiên, nhà đầu tư vẫn chần chừ gom hàng khiến cho lượng giao dịch bị bóp nghẹt, chỉ bằng những phiên thanh khoản thấp của thời biên độ 1-2%, vỏn vẹn 1,6 triệu chứng khoán trao tay, tương đương giá trị 39,8 tỷ đồng.

Những tên tuổi như DPM, FPT, HPG, STB... không gượng lên nổi, trong khi các mã bật xanh rơi vào nhóm cổ phiếu vừa và nhỏ. Mặc dù lượng cung chưa quá lớn nhưng sức cầu yếu và tập trung ở vùng giá thấp nên không thể giúp Vn-Index lật ngược thế trận. Không thể khác hơn, chỉ số này mất 7,6 điểm sau đợt 2, khối lượng chứng khoán thực hiện chưa đầy 7 triệu, kéo giá trị giao dịch chỉ ở mức 159,5 tỷ đồng.

Xu thế đẩy hàng khiến bên mua chùn tay bởi thị trường còn để ngỏ cơ hội sở hữu cổ phiếu với mức giá còn rẻ hơn. Ảnh: Đ.Q.

Tại các mốc điểm chẵn, nhà đầu tư thường có xu hướng hiện thực hóa lợi nhuận. Song song đó, một bộ phận khác lại lao vào mua nhằm đón đầu cơ hội ở những phiên đi lên sắp tới, tạo thanh khoản tốt cho thị trường. Thế nhưng, động thái quen thuộc này đã không lặp lại trong phiên sáng nay, do lo ngại "con tàu" Vn-Index sẽ đổ dốc xuống dưới 300. Khối lượng thực hiện do vậy trở nên ảm đạm. Trọn phiên giao dịch chỉ 8,8 triệu chứng khoán chuyển nhượng (bao gồm cả khớp lệnh và thỏa thuận), mức thấp nhất kể từ đầu tháng 10, tương ứng 238,6 tỷ đồng.

Theo nhận định của ông Ken Tai Chee Ming, chuyên gia phân tích kỹ thuật ở Công ty chứng khoán Kim Eng, xu hướng đi xuống vẫn chưa kết thúc và nhiều khả năng mốc 300 sẽ vỡ tung. Chung cuộc có 13 cổ phiếu đạt mức điểm dương, dễ nhận ra trên bảng điện tử các tên HAX, DHG, FPC, HBD... với mức tăng dao động từ 100 đến 2.000 đồng một cổ phiếu, 19 mã đứng giá và 139 mã giảm. 10 "đầu tàu" về giá trị vốn hóa tại HOSE đồng loạt bổ nhào, FPT vơi 2,5 điểm, DPM, VNM rớt 1-1,1 điểm.

Trong cuộc đua về khối lượng giao dịch, STB tiếp tục dẫn vị trí đầu, với 1,2 triệu cổ phiếu, kế đến là SSI (544.200 cổ phiếu), FPT (352.240 cổ phiếu).

Cùng diễn biến đi xuống với sàn TP HCM, HaSTC-Index trên sàn Hà Nội ghi nhận phiên trượt dốc thứ hai trong tuần, với mức sụt 0,49 điểm (0,47%), chốt ở 103,48 điểm. Tổng khối lượng giao dịch toàn thị trường đạt 5 triệu chứng khoán, trị giá 131,5 tỷ đồng.

Sau phiên giao dịch giằng co trong ngày đầu tiên của tháng cuối năm 2008 này, phiên giao dịch sáng nay chứng khoán lại giảm mạnh trong bối cảnh thị trường chứng khoán thế giới sụt giảm mạnh.

Trong tuần cuối cùng của tháng 11, chứng khoán Việt Nam dường như không có phản ứng tích cực nào đối với những phiên tăng điểm ấn tượng của thị trường chứng khoán Mỹ thì phiên này lại sụt giảm mạnh trước thông tinchứng khoán Mỹ lại lao dốc mạnh.

Ngay trong đợt 1 này giá cổ phiếu lại ồ ạt giảm giá, báo hiệu một phiên giao dịch không mấy sáng sủa cho thị trường. Bất chấp việc giá xăng dầu tiếp tục được điều chỉnh giảm xuống trong quyết định ngày hôm qua của liên Bộ Công Thương –Tài Chính, tâm lý giao dịch phiên này vẫn khá xấu.

Kết thúc giao dịch đợt 1, chỉ số VN-Index giảm mạnh 8,76 điểm (tương đương giảm 2,78%) xuống còn 305,95 điểm. Thị trường diễn biến theo chiều hướng xấu đi khiến giao dịch lại giảm mạnh và chỉ có hơn 1,6 triệu đơn vị được giao dịch sau đợt đầu tiên này, giá trị tương đương chỉ là 39,867 tỷ đồng.

Trong suốt thời gian giao dịch khớp lệnh liên tục không có dấu hiệu nào khả quan hơn, sắc đỏ tiếp tục bao trùm bảng giao dịch điện tử và kết thúc đợt 2, VN-Index giảm 7,6 điểm (tương đương giảm 2,41%) xuống 307,11 điểm.

Khối lượng giao dịch tiếp tục đứng ở mức thấp với hơn 6,67 triệu đơn vị được chuyển nhượng, giá trị là 159,582 tỷ đồng qua 2 đợt.

Số điểm bị mất khi kết thúc giao dịch dù có giảm nhưng thị trường vẫn có phiên giảm điểm mạnh khi chung cuộc, VN-Index giảm 7,26 điểm (tương đương giảm 2,3%) đóng cửa ở mức 307,45 điểm.

Tổng khối lượng giao dịch của cổ phiếu và chứng chỉ quỹ được khớp lệnh thành công phiên này lại giảm xuống với hơn 8 triệu đơn vị, giá trị tương đương 192,25 tỷ đồng. Như vậy là đã giảm 22% về khối lượng và giảm 30% về giá trị so với phiên trước đó.

Gần 80% số chứng khoán niêm yết giảm giá phiên này. Cụ thể, trong tổng số 167 mã cổ phiếu và 4 chứng chỉ quỹ niêm yết, có đến 135 mã giảm giá (trong đó 58 mã giảm giá sàn), chỉ có 13 mã tăng giá (vỏn vẹn 3 mã tăng giá trần), 19 mã đứng giá và 4 mã không có giao dịch nào được thực hiện.

Các mã không có giao dịch gồm: GMC của Dệt may Sài Gòn, IFS của Thực phẩm Quốc tế, SDN của Sơn Đồng Nai và TNA của XNK Thiên Nam.

Nhóm 10 cổ phiếu vốn hoá lớn trên sàn, trong suốt phiên không mã nào vượt qua nổi ngưỡng tham chiếu và kết thúc giao dịch chỉ có PVD đứng giá còn lại các mã đều giảm giá dù không giảm sàn nhưng mức giảm này cũng ảnh hưởng lớn đến biến động VN-Index.

Không chỉ nhóm cổ phiếu trên giảm giá hầu hết các cổ phiếu tên tuổi khác cũng đều đi xuống khi nhóm tăng giá chỉ chiếm thiểu số với phần nhiều là các mã nhỏ, trong đó 3 mã tăng trần là TSC của Vật tư Kỹ thụât NN Cần Thơ, LGC của Điện Lữ Gia và HBD của Nhà Hoà Bình.

Các mã khác tăng giá nữa là: DHG của Dược Hậu Giang, BMC của Bimico, MPC của Thuỷ sản Minh Phú, HLA của Hữu Liên Á Châu, TMS của Trasimex Sài Gòn, HAX của Ô tô Hàng Xanh...

Về khối lượng giao dịch, STB của Sacombank vẫn đứng đầu (1,22 triệu cp), SSI của Chứng khoán Sài Gòn (0,54 triệu cp), FPT của Tập đoàn FPT (0,35 triệu cp), REE của Cơ điện Lạnh (0,3 triệu cp), PVF của Tài Chính Dầu Khí (0,27 triệu cp)...

Chi tiết giao dịch ngày 2/12:
(Đơn vị giá: 1.000đ; Đơn vị KL: 1CP)

Mã CK

Giá cao nhất

Giá thấp nhất

Giá đóng cửa

Thay đổi

%Thay đổi

Khối lượng

ABT

24

23.1

23.5

-0.1

-0.42

64,120

ACL

21.5

21.2

21.2

-1

-4.50

14,480

AGF

16.3

15.3

15.3

-0.4

-2.55

3,500

ALP

8.6

8.2

8.6

0

0.00

14,090

ALT

23

22.8

23

-1

-4.17

70

ANV

17.5

16.8

17.1

-0.4

-2.29

54,940

ASP

11.2

10.9

11

-0.2

-1.79

11,260

BAS

12.4

12.4

12.4

0

0.00

20

BBC

14.4

13.8

13.8

-0.7

-4.83

68,060

BBT

4.9

4.9

4.9

-0.2

-3.92

14,760

BHS

14.8

14.3

14.8

-0.2

-1.33

10,240

BMC

72

70

72

2

2.86

27,290

BMI

17.2

17.1

17.1

-0.9

-5.00

21,360

BMP

27.1

27

27

-1.4

-4.93

116,280

BPC

12.9

12.4

12.9

-0.1

-0.77

6,960

BT6

37.8

37.8

37.8

-1.9

-4.79

290

BTC

23.3

23.3

23.3

-1.2

-4.90

4,670

CAN

11

10.5

10.9

-0.1

-0.91

22,350

CII

25.7

24.7

24.7

-1.2

-4.63

107,080

CLC

15.1

15.1

15.1

-0.7

-4.43

4,540

CNT

11.7

11.4

11.7

-0.1

-0.85

5,110

COM

35

33

33

-1.6

-4.62

11,320

CYC

9.9

9.5

9.5

-0.5

-5.00

8,550

DCC

10.3

9.7

9.7

-0.5

-4.90

7,250

DCL

27.6

26.4

27.4

-0.2

-0.72

1,310

DCT

8.9

8.8

8.8

-0.3

-3.30

5,140

DDM

13.8

13.5

13.5

-0.7

-4.93

33,380

DHA

19.9

19.5

19.6

-0.4

-2.00

14,200

DHG

119

114

119

2

1.71

20,600

DIC

15.2

14.6

15.2

-0.1

-0.65

8,600

DMC

49

49

49

-2.5

-4.85

140

DNP

12

12

12

-0.6

-4.76

9,550

DPC

11

10.6

11

0

0.00

390

DPM

35.3

34.7

35.1

-1.1

-3.04

208,600

DPR

30.4

29.3

30.4

0

0.00

73,400

DQC

16.5

16.1

16.5

-0.1

-0.60

16,400

DRC

17.9

17.1

17.3

-0.7

-3.89

16,640

DTT

9.6

9.6

9.6

-0.2

-2.04

1,290

DXP

21.5

21.1

21.2

-0.8

-3.64

2,750

DXV

7.2

6.8

6.9

-0.2

-2.82

7,170

FBT

15.4

14.7

14.7

-0.7

-4.55

1,700

FMC

11.8

11.3

11.7

-0.1

-0.85

47,300

FPC

19.3

18.1

19.3

0.3

1.58

370

FPT

51.5

50

50

-2.5

-4.76

352,240

GIL

14.4

14.3

14.4

-0.6

-4.00

20,360

GMC

0

GMD

30.3

29

29.3

-1.1

-3.62

83,180

GTA

9

8.6

9

0

0.00

460

HAP

18.5

18.1

18.1

-0.9

-4.74

31,850

HAS

11.3

11.3

11.3

-0.5

-4.24

2,130

HAX

14.9

14.7

14.7

0.2

1.38

3,110

HBC

15

14.8

14.8

-0.6

-3.90

26,550

HBD

13.3

12.4

13.3

0.6

4.72

18,380

HDC

23.7

23.1

23.5

-0.8

-3.29

7,230

HLA

13.6

12.7

13.5

0.5

3.85

27,110

HMC

12.5

12.4

12.5

0

0.00

6,340

HPG

30

29.8

29.8

-0.6

-1.97

124,150

HRC

32.1

31

32.1

-0.1

-0.31

38,590

HSI

13.5

13

13.1

-0.4

-2.96

43,630

HT1

13.3

13

13.3

-0.3

-2.21

11,960

HTV

9.2

8.9

8.9

-0.4

-4.30

8,870

ICF

7.8

7.6

7.7

-0.2

-2.53

11,960

IFS

0

IMP

62.5

61

61

-2.5

-3.94

14,150

ITA

29.5

28.8

28.8

-1.5

-4.95

44,590

KDC

29.1

28.9

28.9

-1.5

-4.93

62,660

KHA

11.8

11.5

11.5

-0.3

-2.54

37,530

KHP

10.2

10

10.2

0

0.00

32,760

KMR

6.5

6.4

6.4

-0.3

-4.48

32,070

KSH

12.7

12.7

12.7

-0.6

-4.51

24,310

L10

11.9

11.6

11.6

-0.6

-4.92

4,150

LAF

11.5

11

11

-0.5

-4.35

30,190

LBM

15.7

15.1

15.6

-0.2

-1.27

32,310

LCG

29.2

29.2

29.2

-1.5

-4.89

24,010

LGC

16.9

16.5

16.9

0.8

4.97

16,230

LSS

15.1

15

15.1

0

0.00

18,420

MAFPF1

4

3.8

3.9

-0.1

-2.50

19,650

MCP

13.7

13.5

13.5

-0.7

-4.93

31,630

MCV

9.5

9.2

9.2

-0.3

-3.16

9,500

MHC

9.5

9.1

9.1

-0.4

-4.21

5,180

MPC

11.7

11

11.7

0.2

1.74

15,590

NAV

11.5

11.4

11.4

-0.6

-5.00

18,420

NHC

37

33.9

33.9

-1.7

-4.78

6,430

NKD

27.9

27.8

27.8

-1.4

-4.79

2,640

NSC

24

23.8

23.8

-1.2

-4.80

9,620

NTL

35.8

34.6

34.6

-1.6

-4.42

18,450

OPC

24

23.8

23.8

-1.2

-4.80

41,810

PAC

38

36.3

38

-0.1

-0.26

5,110

PET

13.7

13.3

13.3

-0.7

-5.00

128,040

PGC

10.1

10

10.1

-0.4

-3.81

44,380

PIT

13.5

13.3

13.5

-0.3

-2.17

4,840

PJT

11.9

11.7

11.7

-0.6

-4.88

8,700

PMS

18.1

18.1

18.1

-0.9

-4.74

110

PNC

9.6

9.2

9.5

-0.1

-1.04

4,940

PPC

18.3

18

18.1

-0.8

-4.23

240,720

PRUBF1

4.1

4

4

0

0.00

68,300

PVD

69.5

67.5

69.5

0

0.00

195,750

PVF

16.2

15.9

15.9

-0.6

-3.64

268,370

PVT

16.4

15.8

16.3

0

0.00

96,030

RAL

24

24

24

-0.8

-3.23

26,200

REE

23

22.6

22.8

-0.8

-3.39

305,800

RHC

23

22.8

22.8

-1.1

-4.60

2,560

RIC

17.5

17.1

17.5

-0.5

-2.78

10,750

SAF

21

20.7

21

-0.3

-1.41

8,260

SAM

15.6

15

15.1

-0.5

-3.21

211,580

SAV

13.1

13.1

13.1

-0.6

-4.38

6,300

SBT

9

8.8

9

0

0.00

70,620

SC5

23.3

21.9

21.9

-1.1

-4.78

21,610

SCD

15.6

15.6

15.6

-0.6

-3.70

1,200

SDN

0

SFC

44.1

43

44

2

4.76

19,830

SFI

36.6

35.3

35.7

-0.9

-2.46

6,640

SFN

10

10

10

-0.4

-3.85

800

SGC

11.8

11.6

11.8

-0.2

-1.67

2,710

SGH

74.5

74.5

74.5

-3.5

-4.49

210

SGT

23.4

22.3

23.4

0

0.00

62,430

SHC

20.5

20.2

20.5

-0.7

-3.30

2,260

SJ1

12.6

12.6

12.6

-0.5

-3.82

10

SJD

14

13.8

14

-0.4

-2.78

5,940

SJS

52

51.5

51.5

-2.5

-4.63

251,790

SMC

20

19.6

20

-0.5

-2.44

4,070

SSC

18.5

18.5

18.5

-0.9

-4.64

4,890

SSI

29.4

28.8

29.3

-0.6

-2.01

544,200

ST8

21.1

20.9

21.1

-0.9

-4.09

7,430

STB

20

19.6

19.8

-0.5

-2.46

1,221,470

SZL

59.5

57

57

-3

-5.00

11,650

TAC

22.9

22.4

22.5

-0.4

-1.75

58,340

TCM

9.6

9.4

9.4

-0.3

-3.09

49,620

TCR

8.9

8.9

8.9

-0.4

-4.30

4,260

TCT

80

78

80

-1.5

-1.84

2,800

TDH

28

27.3

27.3

-1.4

-4.88

63,000

TMC

22

21

21.2

-0.9

-4.07

1,910

TMS

38.7

36.9

38.7

0.3

0.78

440

TNA

0

TNC

9.4

9.4

9.4

-0.4

-4.08

9,030

TPC

8

7.5

8

0.2

2.56

53,950

TRA

52.5

52.5

52.5

-2.5

-4.55

100

TRC

25

24.9

24.9

-3.8

-13.24

61,430

TRI

8.2

7.7

7.8

-0.2

-2.50

25,080

TS4

8.7

8.7

8.7

-0.4

-4.40

9,010

TSC

37.6

35

37.6

1.7

4.74

35,630

TTC

8.7

8.7

8.7

-0.4

-4.40

7,200

TTF

13.4

13.4

13.4

-0.7

-4.96

7,060

TTP

18

18

18

-0.9

-4.76

50,470

TYA

11.9

11.4

11.5

-0.4

-3.36

16,240

UIC

10

9.8

10

0

0.00

2,700

UNI

13.9

13.8

13.9

0.1

0.72

3,700

VFC

7.9

7.6

7.8

-0.1

-1.27

2,980

VFMVF1

7.9

7.7

7.7

-0.3

-3.75

266,940

VFMVF4

4.2

4.1

4.1

-0.2

-4.65

278,890

VGP

21

20

21

0

0.00

2,140

VHC

17.9

17.7

17.7

-1

-5.35

25,250

VHG

7

7

7

-0.3

-4.11

7,690

VIC

81.5

80.5

81.5

-0.5

-0.61

42,760

VID

9.3

9.1

9.1

-0.4

-4.21

46,070

VIP

10.5

10.3

10.3

-0.5

-4.63

236,820

VIS

22.4

22.4

22.4

-1

-4.27

1,010

VKP

7.6

7.4

7.5

0

0.00

9,170

VNA

17

17

17

-0.8

-4.49

4,990

VNE

6.3

6.1

6.1

-0.3

-4.69

57,710

VNM

75

73

74

-1

-1.33

38,400

VNS

19

18.3

19

0

0.00

41,280

VPK

8.8

8.4

8.4

-0.4

-4.55

1,400

VPL

98.5

96.5

98.5

-0.5

-0.51

41,610

VSC

56.5

53.5

54

-1

-1.82

1,370

VSG

12.4

12.2

12.2

-0.2

-1.61

4,670

VSH

26.2

25.6

26.2

0

0.00

44,130

VTA

7

7

7

-0.3

-4.11

1,570

VTB

15.4

14.7

15.2

-0.2

-1.30

3,090

VTC

8.6

8.3

8.6

-0.1

-1.15

2,950

VTO

12.4

12

12.4

0

0.00

137,030

ATPVietnam