BBT chỉ được giao dịch 15 phút/phiên

Friday, September 26, 2008 |



Ngày 25/9, Sở giao dịch CK TPHCM (HoSe) đã có quyết định và thông báo về việc hạn chế thời gian giao dịch cổ phiếu BBT của Công ty CP Bông Bạch Tuyết, cho đến khi công ty này công bố thông tin đầy đủ về việc phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh.

Sở giao dịch CK TPHCM quyết định như vậy là để bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư, vì hiện tại Công ty CP Bông Bạch Tuyết vẫn đang tạm ngừng hoạt động sản xuất kinh doanh và chưa có phương án phục hồi tình hình này.

Đến thời điểm này, Ngân hàng TMCP Hàng Hải (Maritime Bank) chi nhánh Cộng Hòa (TPHCM) cũng đã 2 lần gửi công văn tới Công ty CP Bông Bạch Tuyết yêu cầu có phương án giải quyết nợ vay của công ty này đối với Maritime Bank.

Nếu trong thời gian tới BBT không có giải pháp trả nợ, Maritime Bank sẽ xử lý khoản vay theo quy định của pháp luật. Được biết, tổng dư nợ gốc của Công ty CP Bông Bạch Tuyết tại Maritime Bank khoảng 21 tỷ đồng.

Dân Trí

Giá vàng và USD cùng giảm mạnh

|

Giá vàng đang diễn biến rất thất thường (ảnh: Hữu Nghị).

Theo công bố từ SJC Hà Nội, giá vàng SJC đã giảm tới gần 20.000 đồng/chỉ so với chiều qua và giảm 6.000 đồng/chỉ so với sáng nay, xuống còn 1,78 triệu đồng/chỉ (mua vào) - 1,795 triệu đồng/chỉ (bán ra).

Trên thị trường tự do, vàng Bảo Tín Minh Châu còn 1,778 triệu đồng/chỉ - 1,793 triệu đồng/chỉ, cũng giảm gần 20.000 đồng/chỉ so với chiều qua và giảm 12.000 đồng/chỉ so với sáng nay.

Còn tại sàn vàng ACB, giá vàng SJC còn 1,786 triệu đồng/chỉ, tính đến gần 15h chiều nay, toàn sàn có 156.000 lượng vàng khớp thành công, tương ứng giá trị 2.800 tỷ đồng.

Giá vàng trong nước được điều chỉnh giảm theo xu hướng thế giới. Kết thúc phiên giao dịch hôm qua, giá vàng giao sau vào tháng 12 tại New York giảm 13 USD/ounce, xuống 882USD/ounce; giá vàng giao ngay giảm 6,1 USD/ounce, đóng cửa ở mức 875,8 USD/ounce.

Tại châu Á, giá vàng buổi sáng giao dịch ở mức 878,6 USD/ounce, đến chiều nay trên trang Kitco.com chỉ còn 867,4 USD/ounce, biên độ giảm 8,4 USD. Kế hoạch “giải cứu” thị trường tài chính của Chính phủ Mỹ đã làm giảm sức hẫp dẫn của vàng đối với nhà đầu tư, khiến giá mặt hàng kim loại quý này hạ mạnh.

Cùng chung xu hướng giảm, nhưng giá vàng trong nước vẫn niêm yết bán ra cao hơn thế giới gần 70.000 đồng/chỉ. Chiều nay, giá USD tại các cửa hàng ngoại tệ trên phố Hà Trung (Hà Nội) giảm xuống mức 16.570 VND (mua vào) - 16.590 VND (bán ra), giảm 60 VND so với hôm qua.

Trong khi Ngân hàng Nhà nước niêm yết tỷ giá bình quân liên ngân hàng cho ngày 26/9 là: 1 USD = 16.514 VND; tỷ giá giao dịch của ngân hàng thương mại là: 16,560 VND - 16.610 VND.

Dân Trí


Phiên cuối tuần của chứng khoán Việt Nam khởi đầu trong không khí lạc quan nhờ tin tốt đến từ thị trường thế giới. Vn-Index tăng 13,38 điểm, sẽ khởi đầu tuần mới từ mức 483,81 điểm.

Quốc hội Mỹ về cơ bản đã đồng ý với các điều khoản trong đạo luật giải cứu thị trường tài chính, giúp mang lại làn gió mát lành cho chứng khoán toàn cầu.

Vn-Index phản ứng tích cực trước thông tin trên, nhảy vọt 4,21% tương đương 19,83 điểm, mở cửa tại 490,26 điểm. Lượng cổ phiếu được khớp đạt 8,04 triệu, giá trị 314,56 tỷ đồng

Tuần qua, nhà đầu tư được hưởng niềm vui tăng điểm tới 4 trong số 5 phiên giao dịch. Ảnh: Hoàng Hà.
Tuần qua, nhà đầu tư được hưởng niềm vui tăng điểm tới 4 lần trong số 5 phiên giao dịch. Ảnh: Hoàng Hà.

Tuy nhiên, phản ứng lên điểm có phần "thái quá" của giới đầu tư trong nửa giờ giao dịch định kỳ đã dẫn đến điều chỉnh giá cổ phiếu trong đợt khớp lệnh thứ hai. Từ mức giá trần, quá nửa mã trên HOSE đã rơi xuống gần mức tham chiếu, thậm chi giảm điểm chỉ trong 20 phút đầu của đợt khớp lệnh thứ hai. Vn-Index do đó cũng mất gần 3% so với đợt đầu, số điểm cộng bị kéo xuống chỉ còn khoảng 1,22%.

Từ mức điểm được cho là hợp lý này, không có thêm nhiều lệnh bán được đưa ra. Cán cần cung cầu lại thay đổi với xu hướng chính thuộc về bên mua. Nhóm blue-chip như SSI, STB, DPM sau khi điều chỉnh giảm vào đầu đợt hai đã quay đầu đi lên trở lại.

Sau đợt đợt khớp lệnh liên tục, Vn-Index chốt tại 485 điểm, tăng 14,07 điểm, ứng với 2,99%. Khối lượng giao dịch đạt 19,45 triệu chứng khoán, giá trị là 763,24 tỷ đồng.

Bước vào giai đoạn khớp lệnh định kỳ cuối cùng trong ngày, Vn-Index giảm nhẹ, từ đó kết thúc ngày giao dịch tại 483,81 điểm, cao hơn phiên trước 13,38 điểm, tương đương 2,84%. Tổng số chứng khoán trao tay đạt 22,3 triệu, giá trị giao dịch là 865,8 tỷ đồng.

Giao dịch thỏa thuận trong phiên này ở mức thấp, chỉ 185 nghìn chứng khoán được sang tên, giá trị 8,28 tỷ đồng.

Toàn thị trường đã có 109 mã tăng, 15 mã đứng giá, số cổ phiếu giảm là 40.

Sàn Hà Nội cũng trải qua một phiên tăng. Hastc-Index lên thêm 2,08%, ứng với 3,27 điểm, đóng cửa tại 160,31 điểm. Tổng khối lượng giao dịch đạt 13,39 triệu cổ phiếu, giá trị 491,54 tỷ đồng.

Dưới quan sát của giới chuyên môn, phiên tăng hôm nay đến một cách khá hợp lý về mặt kỹ thuật. Trong một số ngày giao dịch trước, diễn biến tăng giảm xen kẽ của chứng khoán báo hiệu thị trường đang trải qua giai đoạn tích lũy ngắn. Qua biểu đồ giá, ngày tăng điểm hôm nay báo hiệu chứng khoán có thể đã bước qua giai đoạn tích lũy, từ đó mở ra xu hướng tăng mới.

Tuy nhiên, thông tin từ thị trường tài chính Mỹ những ngày tới sẽ tiếp tục ảnh hưởng tới thị trường trong nước. Đặc biệt là diễn biến liên quan tới kế hoạch mua lại các khoản nợ xấu ngân hàng của Bộ Tài chính Mỹ. Trong trường hợp kế hoạch này tiến hành và có hiệu quả tích cực, Vn-Index nhiều khả năng sẽ được hưởng lợi; và ngược lại.

Theo thống kê từ website Sở giao dịch chứng khoán TP HCM, từ đầu tháng 9 đến nay có hơn 10 trường hợp cổ đông ngoại thực hiện giao dịch bán cổ phiếu với lý do cơ cấu lại danh mục đầu tư.

Mới đây, Công ty cổ phần cáp và vật liệu viễn thông (mã chứng khoán SAM) thông báo, cổ đông lớn Wareham Group Limited tiếp tục bán ra 1,6 triệu cổ phiếu SAM, hiện chỉ còn giữ 2,9 triệu, chiếm tỷ lệ sở hữu cổ phần 4,45%. Tính từ đầu năm đến nay, tổ chức này đã bán ra hơn 3 triệu cổ phiếu SAM.

Trước đó, Deutsche Bank Ag London từ mức sở hữu 5,07% đã hạ xuống 4,99% khi tổ chức này chuyển nhượng 29.190 cổ phiếu SJS.

Các chuyên gia cho rằng động thái bán ra của các cổ đông lớn, quỹ đầu tư chủ yếu là nhằm cơ cấu lại danh mục đầu tư. Ảnh: H.P.

Trung tuần tháng 9, Kitmc Worldwide Viet Nam RSP Balanced Fund vốn sở hữu 5,33% cổ phần của công ty cổ phần vận tải xăng dầu Vipco cũng đã hiện thực hóa lợi nhuận hơn 200 nghìn cổ phiếu VIP. Cùng trong khoảng thời gian này, 2 quỹ đầu tư lớn của công ty cổ phần thực phẩm Sao Ta là Viet Nam Emerging Equities Fund và PXP Viet Nam Fund Ltd cũng sang tay lần lượt 200 nghìn và 100 nghìn mã FMC.

Ngoài ra còn có cổ đông ngoại của công ty cổ phần bao bì nhựa Tân Tiến, công ty cổ phần chế biến hàng xuất khẩu Long An, công ty cổ phần nhiệt điện Phả Lại... cũng bán xấp xỉ 1% số lượng cổ phần nắm giữ.

Tiến sĩ Nguyễn Văn Thuận, Trưởng khoa Tài chính ngân hàng, trường Đại học Mở TP HCM nhận định, tình hình tài chính thế giới đang có nhiều biến động, các cổ đông ngoại, quỹ đầu tư sẽ điều chỉnh lại kế hoạch trong cả ngắn và dài hạn. Ví dụ, những cổ phiếu của công ty có mức đầu tư tài chính cao như REE, SAM, cổ đông ngoại sẽ bán ra để đầu tư vào những doanh nghiệp đẩy mạnh phát triển ngành nghề truyền thống.

Tuy nhiên, theo Tiến sĩ Thuận, việc cơ cấu lại danh mục của các cổ đông lớn không hẳn là rút vốn hoàn toàn khỏi thị trường Việt Nam. Bởi lẽ so với những thị trường khác trong khu vực thì Việt Nam thuận lợi cho đầu tư dài hạn hơn, nhất là khi nền kinh tế đang có biến chuyển khả quan và sẽ phát triển hơn nữa trong các năm tiếp theo.

Một nguyên nhân cũng không kém phần quan trọng dẫn đến động cơ bán ra của những cổ đông ngoại theo lý giải của Tiến sĩ Thuận là nhằm hiện thực hóa lợi nhuận. Vì thị trường đã có sự phục hồi trở lại trong 2 tháng trở lại đây và hiện nay là điều kiện khá tốt để bán ra. Hơn nữa, các tổ chức này bán cổ phiếu còn nhằm hạch toán lợi nhuận, làm đẹp báo cáo tài chính cuối năm.

Đồng quan điểm trên, Giám đốc quỹ đầu tư VinaCapital, bà Đặng Phạm Minh Loan cho biết, phần lớn cổ phiếu các quỹ bán ra trong thời gian qua là nhằm tái cơ cấu danh mục đầu tư cho hợp lý hơn trong bối cảnh kinh tế hiện nay và không thể nói rằng nhà đầu tư nước ngoài đang rút vốn khỏi Việt Nam.

Bởi lẽ, trong tháng 7, nhà đầu tư nước ngoài mua 3.800 tỷ đồng, bán 1.800 tỷ đồng. Trong tháng 8, giá trị mua bán của khối ngoại xấp xỉ nhau ở mức 3.500 tỷ đồng. Và từ đầu tháng 9 đến nay, giá trị mua vào của nhà đầu tư nước ngoài (2.600 tỷ đồng) ít hơn giá trị bán (2.700 tỷ đồng), nhưng mức chênh lệch khoảng trên 100 tỷ là không đáng kể, nên không thể nói rằng dòng tiền của khối ngoại đang thoát khỏi thị trường,.

Ngoài ra, khi thị trường điều chỉnh thì giá cổ phiếu sẽ trở nên ngày càng hấp dẫn hơn và nhà đầu tư nước ngoài sẽ tăng mua khi giá một số cổ phiếu nhất định đạt đến ngưỡng mua của họ, bà Loan cho biết thêm.

VNExpress

Sau phiên giao dịch hồi phục trước đó, chứng khoán Việt Nam ngày cuối tuần tiếp tục khởi sắc khi bảng giao dịch điện tử tiếp tục phủ kín sắc xanh.

Cùng với yếu tố hỗ trợ tích cực trong nước như chỉ số giá tiêu dùng tiếp tục trong tháng 9 tăng ở mức thấp, nhập siêu cũng được công bố mới đây dừng ở mức thấp nhất từ đầu năm đến nay và hơn hết là thông tin các ngân hàng đã bắt đầu giảm lãi suất cho vay... đã là những thông tin khá khả quan đối với thị trường chứng khoán.

Mặt khác, trong thời gian gần đây, thị trường chứng khoán Việt Nam đã có những phiên giao dịch theo khá sát diễn biến thị trường toàn cầu, trước phiên giao dịch này chứng khoán Mỹ đã tăng điểm khá ấn tượng trở lại, thị trưòng các nước trong khu vực cũng đang tăng điểm.

Hoà chung với những yếu tố tích cực này, ngay khi kết thúc đợt 1, chỉ số VN-Index đã tăng mạnh 19,83 điểm (tương đương tăng 4,22%) lên 490,26 điểm. Giao dịch tăng mạnh với hơn 8 triệu đơn vị được giao dịch, giá trị là 314,56 tỷ đồng.

Đợt khớp lệnh liên tục tiếp tục diễn ra trong không khí sôi động, tuy nhiên sức ép bán ra đã phần nào giảm bớt số điểm có được của Vn-Index khi kết thúc đợt 2, cụ thể, VN-Index đã tăng 14,07 điểm (tương đương tăng 2,99%) lên 484,50 điểm. Khối lượng giao dịch tiếp tục tăng mạnh với hơn 19,4 triệu đơn vị với giá trị là 763,25 tỷ đồng.

Đợt 3 kết thúc, chung cuộc VN-Index đã có mức tăng khá tốt 13,38 điểm (tương đương tăng 2,84%) đóng cửa ở mức 483,81 điểm.

Như vậy sau 2 tuần liên tiếp VN-Index mất điểm, kết thúc phiên cuối tuần này, VN-Index đã tăng tổng cộng 44,75 điểm (tức là đã tăng 10,19%) so với mức điểm cuối tuần trước.

Khối lượng giao dịch của cổ phiếu và chứng chỉ quỹ thông qua khớp lệnh tiếp tục được nâng cao với hơn 22,1 triệu đơn vị được chuyển nhượng, giá trị đạt 865,83 tỷ đồng. Tăng thêm khoảng 25% về cả khối lượng cũng như giá trị giao dịch so với phiên trước đó.

Biến động của các mã chứng khoán niêm yết phiên này, ghi nhận đã có 111 mã tăng giá (trong đó có 39 mã tăng trần), 39 mã giảm giá (chỉ có 10 mã giảm giá sàn) và 14 mã giữ mức tham chiếu.

Các cổ phiếu Blue-chips tiếp tục tăng giá mạnh trong phiên hôm nay, trong nhóm 10 cổ phiếu có mức vốn hoá lớn không có mã nào giảm giá.

Có 4 mã nhóm này chung mức tăng trần 4.500 đồng là FPT của Tập đoàn FPT (lên 99.500 đồng/cp), PVD của PV Drilling (lên 99.000 đồng/cp), VIC của Vincom (lên 95.500 đồng/cp) và VNM của Vinamilk (lên 97.500 đồng/cp). SSI của Chứng khoán Sài Gòn cũng tăng trần (+2.500 đồng lên 57.000 đồng/cp).

Các mã khác tăng giá là DPM của Đạm Phú Mỹ (+1.000 đồng lên 60.500 đồng/cp), HPG của Hoà Phát (+2.000 đồng lên 61.000 đồng/cp), STB của Sacombank (+.600 đồng lên 26.000 đồng/cp), PPC của Nhịêt điện Phả Lại (+1.500 đồng lên 35.100 đồng/cp).

Nhóm giảm giá có một số mã đáng chú ý như SJS của Sudico, DMC của XNK Y tế Domesco, NTL của Nhà Từ Liêm, VHC của CTCP Vĩnh Hoàn, SBT của Bourbon Tây Ninh hay SAM của Cáp và Vật liệu Viễn thông...

Khối lượng khớp lệnh nhiều nhất đều là các mã Blue-chips, đứng vị trí đầu vẫn là STB (hơn 3 triệu cp),HPG (hơn 2 triệu cp), SSI (1,1 triệu cp), DPM (hơn 1 triệu cp), VTO (0,99 triệu cp), SAM (0,78 triệu cp), VYP (0,6 triệu cp)...

Chi tiết giao dịch ngày 26/9:
(Đơn vị giá: 1.000đ; Đơn vị KL: 1 CP)

Mã CK

Giá cao nhất

Giá thấp nhất

Giá đóng cửa

Thay đổi

%Thay đổi

Khối lượng

ABT

38.3

35

37

0.5

1.37

18,170

ACL

43.7

42.9

43.5

0.7

1.64

29,840

AGF

27.2

26

26.1

0.1

0.38

34,730

ALP

15.1

14.7

15.1

0.7

4.86

173,610

ALT

35

33.3

33.3

-1.7

-4.86

5,780

ANV

46.9

46

46.5

1.8

4.03

40,880

ASP

14

13.5

13.7

0

0.00

66,400

BBC

24.6

22.8

23.8

0.2

0.85

55,740

BBT

6.3

5.7

6.3

0.3

5.00

161,370

BHS

18.9

18

18

0

0.00

25,650

BMC

123

123

123

5

4.24

26,170

BMI

29.5

28.1

29.3

1.2

4.27

24,110

BMP

51

51

51

2.1

4.29

27,160

BPC

14.3

14.1

14.2

0.5

3.65

6,250

BT6

54

54

54

2.5

4.85

3,240

BTC

35.5

32.6

32.6

-1.7

-4.96

2,430

CAN

13.5

13

13.2

0.3

2.33

38,530

CII

37.3

35.7

36.5

0.8

2.24

108,680

CLC

20.1

19

19

-0.9

-4.52

5,610

CNT

21.9

20.5

20.5

-0.6

-2.84

20,260

COM

36.3

33.2

35.2

0.3

0.86

14,630

CYC

20.5

18.7

19.8

0.2

1.02

69,840

DCC

15.3

14

14.3

-0.4

-2.72

45,920

DCL

64

62.5

64

3

4.92

85,110

DCT

13.4

12.5

13

0.2

1.56

105,990

DDM

30.1

27.6

28

-1

-3.45

181,870

DHA

25.8

24.8

24.8

0.2

0.81

38,870

DHG

140

138

139

1

0.72

44,780

DIC

20.5

19

20

0.2

1.01

22,460

DMC

70

66.5

67

-2

-2.90

44,240

DNP

13.9

13.4

13.8

0.5

3.76

32,090

DPC

15.2

14.6

15

0.5

3.45

5,650

DPM

62

59.5

60.5

1

1.68

1,068,290

DPR

64.5

62.5

64

2.5

4.07

100,050

DQC

33.3

31

32.5

0.5

1.56

90,820

DRC

38.8

37.4

37.9

0.9

2.43

27,200

DTT

13.5

13.5

13.5

0

0.00

4,890

DXP

30.5

30.5

30.5

1.4

4.81

12,700

DXV

12

11.1

11.1

-0.5

-4.31

86,110

FBT

22.2

22.2

22.2

1

4.72

33,450

FMC

15

14.3

14.9

0.6

4.20

101,900

FPC

23.7

22.8

23.5

0.8

3.52

14,930

FPT

99.5

95

99.5

4.5

4.74

545,710

GIL

20.2

19.4

19.4

0

0.00

57,200

GMC

21.3

20.5

21.3

-0.2

-0.93

13,970

GMD

58

54.5

56

0.5

0.90

66,600

GTA

13.9

13.4

13.6

0.2

1.49

9,830

HAP

28.6

27.3

28

0.7

2.56

102,990

HAS

16.4

15.5

15.8

0

0.00

17,570

HAX

26.2

25

25.1

0.1

0.40

10,440

HBC

25.2

24.4

24.9

0.9

3.75

54,830

HBD

12.1

12

12.1

0.5

4.31

9,320

HDC

38

35.4

36.9

0.5

1.37

22,800

HMC

24.8

24

24

-0.4

-1.64

49,500

HPG

61.5

59

61

2

3.39

2,046,990

HRC

53

51.5

53

2.5

4.95

63,980

HSI

21.5

20.5

20.5

0

0.00

20,930

HT1

15.9

15.5

15.9

0.7

4.61

115,750

HTV

15

14.3

14.5

-0.3

-2.03

82,870

ICF

12.3

11.8

12

0.2

1.69

67,650

IFS

13.1

12.2

13.1

0.6

4.80

18,970

IMP

94.5

92

93

0

0.00

18,410

ITA

58.5

56

58.5

2.5

4.46

163,030

KDC

59

55

57.5

1

1.77

55,260

KHA

16

15

16

0.7

4.58

138,370

KHP

13.6

13.1

13.6

0.6

4.62

140,260

KMR

13.1

11.9

13

0.5

4.00

111,070

L10

15.1

15.1

15.1

0.7

4.86

17,580

LAF

24.1

23.6

23.8

0.7

3.03

94,910

LBM

30.5

29.5

30.5

1.4

4.81

147,430

LGC

25.2

25.2

25.2

-13.3

-34.55

17,680

LSS

17.6

16.9

17.4

0.6

3.57

55,720

MAFPF1

5

4.7

5

0.1

2.04

34,780

MCP

15.5

14.2

15

0.2

1.35

8,990

MCV

16.2

15.5

16.2

0.7

4.52

171,200

MHC

15

14

14

-0.7

-4.76

89,110

MPC

16.8

15.5

16.2

0.2

1.25

323,100

NAV

19

17.5

18.4

0

0.00

47,210

NHC

50.5

46.2

49.5

1.2

2.48

10,140

NKD

57.5

56

57.5

2.5

4.55

11,200

NSC

31

30.4

30.8

1.2

4.05

30,500

NTL

60.5

57

58.5

-0.5

-0.85

55,840

PAC

45

43

44.9

0.4

0.90

24,950

PET

26.9

25.5

26.8

1.1

4.28

193,760

PGC

15

14.6

14.7

0.3

2.08

56,230

PIT

19.1

18.2

18.4

0.2

1.10

44,450

PJT

16.8

16.4

16.7

0.7

4.38

46,020

PMS

24.5

22.6

24.4

0.7

2.95

2,340

PNC

13.3

13

13.2

0.5

3.94

2,960

PPC

35.2

33.6

35.1

1.5

4.46

514,330

PRUBF1

5.1

4.9

5

0

0.00

195,570

PVD

99

96

99

4.5

4.76

511,250

PVT

21

21

21

1

5.00

147,170

RAL

40.7

36.9

40.6

1.8

4.64

76,810

REE

45.1

41

44

1

2.33

589,790

RHC

24.9

23.8

23.8

-1.2

-4.80

10,250

RIC

21

20

21

1

5.00

32,910

SAF

24.9

23.1

23.1

-0.7

-2.94

3,210

SAM

24.6

23.4

23.9

-0.3

-1.24

785,740

SAV

17

15.9

15.9

-0.7

-4.22

32,850

SBT

12.9

11.9

12.2

-0.1

-0.81

264,680

SC5

35.1

32.1

34

0.5

1.49

90,060

SCD

21

20.6

20.9

-0.6

-2.79

8,070

SDN

25.7

25

25.1

-0.1

-0.40

1,090

SFC

46.2

42

42

-2

-4.55

11,120

SFI

61.5

59

61.5

2.5

4.24

101,290

SFN

14.1

13.6

14.1

0.6

4.44

1,550

SGC

17.7

16.6

16.6

-0.8

-4.60

52,800

SGH

102

95

102

2

2.00

2,100

SGT

38.8

37

38.8

1.8

4.86

173,780

SHC

43.2

42.1

42.6

-1.7

-3.84

27,000

SJ1

18

17.5

18

0.7

4.05

1,220

SJD

16.3

15.7

16.3

0.7

4.49

39,900

SJS

117

108

108

-4

-3.57

331,230

SMC

34.5

32.5

33.3

-0.3

-0.89

33,480

SSC

26.5

25.5

26.5

1

3.92

48,700

SSI

57

54.5

57

2.5

4.59

1,107,240

ST8

34.7

33.1

34.4

1.3

3.93

7,830

STB

26.6

25

26

0.6

2.36

3,006,260

SZL

61.5

57

57.5

-2

-3.36

36,290

TAC

55.5

53

55.5

2.5

4.72

103,680

TCM

14.5

13.5

13.9

0

0.00

95,820

TCR

14.2

13.5

14.2

0.2

1.43

15,380

TCT

123

118

123

5

4.24

7,650

TDH

46.2

44

45.2

1.2

2.73

123,880

TMC

35.5

34.2

35.4

1.4

4.12

21,860

TMS

43.5

40.5

41.2

-0.3

-0.72

7,720

TNA

23.4

22

23.4

1.1

4.93

17,700

TNC

15.8

15.2

15.6

0.5

3.31

118,420

TPC

12.7

11.6

12.1

0

0.00

152,510

TRC

67.5

64

64.5

-0.5

-0.77

47,640

TRI

18.9

18.5

18.7

0.7

3.89

47,640

TS4

17

16.4

17

0.8

4.94

84,590

TSC

62

59

61

0

0.00

72,660

TTC

13.2

12.6

12.6

-0.6

-4.55

49,110

TTF

25.7

24.5

25

0.5

2.04

37,360

TTP

25.3

24.5

24.9

0.1

0.40

151,720

TYA

19.2

17.8

18.8

0.5

2.73

152,950

UIC

15

14

15

0.7

4.90

114,310

UNI

24

22.7

23.5

0.5

2.17

30,690

VFC

15.2

14.3

14.3

-0.7

-4.67

84,910

VFMVF1

12.2

11.7

11.8

0.1

0.85

196,880

VFMVF4

6.9

6.5

6.7

-0.1

-1.47

92,110

VGP

28.9

26.8

28

-0.2

-0.71

13,160

VHC

35

32.3

32.3

-1.7

-5.00

5,400

VHG

15.4

14.4

14.7

-0.1

-0.68

25,730

VIC

95.5

93.5

95.5

4.5

4.95

141,480

VID

12.4

11.8

12

0

0.00

153,530

VIP

18.5

17.6

18.5

0.8

4.52

604,850

VIS

30.5

29

29

-1.3

-4.29

59,330

VKP

13.7

12.8

13.1

-0.2

-1.50

74,280

VNA

39

38.5

39

1.8

4.84

495,550

VNE

12.8

12.1

12.6

0.4

3.28

199,690

VNM

97.5

95

97.5

4.5

4.84

155,290

VNS

26.7

26

26

0.5

1.96

36,110

VPK

11.9

11.4

11.5

0

0.00

12,570

VPL

122

118

120

2

1.69

87,540

VSC

77

76

77

3.5

4.76

75,820

VSG

19.5

18.3

18.4

-0.6

-3.16

97,680

VSH

33.4

31.9

32

0.1

0.31

218,550

VTA

11.1

10.5

10.5

-0.3

-2.78

23,720

VTB

19

17.7

18.4

-0.2

-1.08

17,560

VTC

14.9

14

14.4

0.2

1.41

5,250

VTO

18.4

17.6

18.3

0.7

3.98

993,000



ATPVietnam