Sau khi giảm điểm trong ngày đầu tuần, chứng khoán Mỹ đã có một phiên đảo chiều khá ngoạn mục. Tuy nhiên, đà tăng của các chỉ số chính sẽ bị thách thức trong những ngày tới khi một loạt kỷ lục buồn vừa được xác lập tại thị trường bất động sản.

Kết thúc phiên hôm qua 18/11, chỉ số Dow Jones đóng cửa tại 8.424,75 điểm, tăng 1,83%. Chỉ số Nasdaq có giá trị 1.483,27 điểm, cao hơn phiên trước 0,08%. Chỉ số Standard & Poor chốt ở mức 859,12 điểm, đi lên 0,98%.

Các chỉ số chính của chứng khoán Mỹ có nhiều biến động trong phiên hôm qua sau khi các thông tin cả tích cực lẫn tiêu cực được công bố. Tin tức trái chiều đã khiến chỉ số chính mất điểm vào đầu phiên nhưng đã hồi lại và đi lên vào cuối ngày.

Đầu tiên là chỉ số lòng tin của người xây nhà, do Hiệp hội Xây dựng Nhà Quốc gia công bố, đang rơi xuống mức rất thấp. Chỉ số này hiện chỉ còn 9 điểm trên thang từ 1 đếm 100, mức tồi tệ nhất từ khi ra đời năm 1985.

Cho vay dưới chuẩn (Subprime Lending) được cho là nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của thị trường bất động sản Mỹ. Ảnh: blogspot.com.

Giá nhà lao dốc mức thấp kỷ lục trong quý ba, hiện chỉ còn 9% so với cùng kỳ năm ngoái, kéo theo cơn bão tịch biên nhà đất để trả nợ. Sự sụt đổ của thị trường nhà đất cũng như nhiều khoản nợ dưới chuẩn gần đây đã khiến khủng hoảng tín dụng thêm trầm trọng. Tuy nhiên, theo các chuyên gia đây cũng là cơ hội để những người đầu cơ thu gom tài sản giá trị với giá hời.

Theo thông tin mới công bố, đà giảm của giá bán buôn trong tháng 10 là nhanh chưa từng thấy do giá dầu mất giá trong 4 tháng gần đây. Tuy nhiên nếu loại trừ thực phẩm và năng lượng thì giá bán buôn lại lên hơn dự tính của giới phân tích. Một báo cáo khác cho biết áp lực lạm phát hiện đang ở mức vừa phải.

Hôm qua, Bộ trưởng Bộ Tài chính, Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang (FED), và Chủ tịch Cơ quan Bảo hiểm Tiền gửi Liên bang (FDIC) phát biểu với hội đồng Quốc hội rằng kết hoạch giải cứu khối tài chính đã giúp thị trường ổn định trở lại. Động thái trên của những người đứng đầu nền kinh tế được cho là có tác dụng hỗ trợ cho tâm lý nhà đầu tư trong giai đoạn bất ổn hiện nay.

Tuy nhiên, những tuyên bố trên khó có thể xoa dịu nỗi lo đến từ các nhà sản xuất ôtô. Ba tập đoàn hàng đầu là General Motors, Ford Motor, và Chrysler cho biết sẽ cần thêm 25 tỷ đôla để chống chịu trước cơn khủng hoảng hiện tại. Trước đó Chính phủ đã bơm 25 tỷ đôla để tránh cho các hãng khỏi phá sản.

Các nhà phân tích cho rằng số tiền trên chỉ là giải pháp tình thế để tránh nguy cơ sụp đổ trước mắt, chứ không giải quyết được những khó khăn nội tại của ngành công nghiệp xe hơi. Theo đó, lựa chọn hợp lý sẽ là để các hãng phá sản, tái cơ cấu lại hoạt động và từ đó các công ty đi sau sẽ rút được nhiều bài học quý báu.

Thông tin tích cực khác đến từ khối công nghệ, Tập đoàn máy tính Hewlett-Packard (HP) dự đoán lợi nhuận quý IV cao hơn dự kiến của giới phân tích, bất kể sự trì trệ của nền kinh tế.

Bên cạnh đó, ngày thứ tư, thị trường Mỹ sẽ đón đợi các báo cáo quan trọng về Chỉ số giá hàng tiêu dùng, cấp phép xây nhà mới, cũng như kết quả của cuộc họp cuối cùng trong năm của FED.

Dầu thô giao sau tháng 12 tại thị trường New York giảm 56 cent, kết thúc ngày giao dịch tại 54,39 đôla một thùng, thấp nhất kể từ tháng 1/2007.

Được thúc đẩy từ kết quả khả quan tại phố Wall, chứng khoán châu Âu phiên vừa qua đã lên điểm trở lại. Chỉ số FTSE 100 của Anh lên 1,18%. Chỉ số DAX của Đức tăng 0,49%. Chỉ số CAC 40 của Pháp đóng cửa cao hơn phiên trước 1,11%.

Tại châu Á, báo cáo bi quan về sức khỏe nền kinh tế đã khiến chứng khoán Nhật trượt dốc. Nhóm cổ phiếu ngân hàng và xuất khẩu dẫn đầu xu hướng giảm, từ đó kéo Nikkei 225 xuống 2,28%. Chỉ số KOSPI của Hàn Quốc mất 3,91%. Chỉ số Hang Seng của Hong Kong bị trừ 5,05%. Chứng khoán Trung Quốc cũng chứng kiến chỉ số Shanghai Composite bị trừ 6,31%.

Bứt lên 0,66% trong đợt một, nhưng Vn-Index không duy trì được đà tăng và mất 1,12% khi thị trường đóng cửa. Khối lượng giao dịch hiện cũng đang ở mức thấp nhất trong gần 2 tháng qua.

Phố Wall lên điểm đêm qua ít nhiều mang lại sự tự tin cho giới đầu tư trong phiên giao dịch sáng nay. Lượng cầu trong đợt một áp đảo so với cung đã giúp chỉ số chính của thị trường tăng điểm. Kết thúc đợt khớp lệnh mở cửa, Vn-Index có giá trị 342,93 điểm, đi lên 2,24 điểm, tương ứng 0,66%. Đã có 1,52 triệu chứng khoán được khớp, giá trị 37,6 tỷ đồng.

Dù có dấu hiệu hồi phục sau 2 phiên giảm, nhưng tính thanh khoản thấp cùng với đó là số điểm cộng không lớn gợi lên dấu hiệu bất ổn của thị trường trong những phút tiếp theo. Nỗi lo này càng có cơ sở khi thị trường quay đầu, xóa sạch nỗ lực của đợt một. Sắc đỏ dần lấn át sắc xanh trên bảng điện tử, song song với đó số điểm trừ của Vn-Index càng lúc càng dày thêm, có thời điểm lên tới gần 1%.

Những lần Vn-Index tăng
Những lần Vn-Index tăng "hụt" với các nhà đầu tư đôi khi còn tệ hại hơn nhiều so với những giảm điểm. Ảnh: Hoàng Hà.

Ngoại trừ REE, phần lớn các cổ phiếu hàng đầu đầu đi lên trong đợt một và đầu đợt hai. Các blue-chip như SSI, STB, PVD, HPG khởi sắc đã làm đầu tầu kéo chỉ số chính của thị trường tăng điểm. Tuy nhiên, cũng chính sự sa sút của nhóm này là nguyên nhân đẩy hàn thử biểu trượt xuống dưới giá tham chiếu trong khoảng thời gian còn lại của đợt khớp lệnh liên tục.

Với mức dao động lớn theo chiều hướng giảm của chứng khoán, nhiều giao dịch thực hiện trong đợt một đã lỗ ngay trong phiên. Chẳng hạn với các cổ phiếu như FPT, BMP hay PNC, mức lỗ mà nhà đầu tư phải gánh chịu nếu mua cổ phiếu từ đợt khớp lệnh định kỳ mở cửa là từ 4% tới 7%, cao hơn cả biên độ dao động tối đa tại HOSE.

Theo một nhà đầu tư tại Công ty Chứng khoán SME, trong giao dịch chứng khoán, thiệt hại do những phiên đảo chiều hụt là rất đáng sợ. Đôi khi còn lớn hơn so với việc mua cổ phiếu trong những phiên thị trường giảm mạnh ngay từ đầu. Lý do là những bẫy tăng giá ngay trong phiên thường khiến mức lỗ của nhà đầu tư lên cao hơn cả biên độ dao động cho phép. Hơn nữa, những lần đảo chiều thất bại thường được nối dài bởi một chuỗi ngày giảm liên tiếp khiến nhà đầu tư lỗ nặng khi cổ phiếu về tài khoản.

Kết thúc đợt hai, hàn thử biểu chốt tại 338,42 điểm, bị trừ 2,28 điểm, ứng với 0,66%. Tổng số cổ phiếu trao tay sau đợt khớp lệnh liên tục là 7,12 triệu, ứng với khối lượng 188,28 tỷ đồng.

Đợt khớp lệnh định kỳ cuối cùng trong ngày chứng kiến nhà đầu tư đẩy mạnh lượng cung cho thị trường. Từ đó, kéo Vn-Index xuống chỉ còn 336,89 điểm, thấp hơn tham chiếu 3,8 điểm, ứng với 1,11%.

Khối lượng thực hiện giao dịch báo giá toàn sàn đạt 9,09 triệu chứng khoán, giá trị 236,74 tỷ đồng. Qua giao dịch thỏa thuận đã có 905 nghìn chứng khoán được khớp, giá trị 50,09 tỷ đồng. Như vậy, tính thanh khoản của thị trường đã tụt xuống mức thấp nhất kể từ 30/9.

Theo thống kê tại HOSE, đã có 54 mã tăng, 85 mã giảm, và 29 mã đứng giá.

Nhà đầu tư tại sàn Hà Nội cũng có một ngày giao dịch ảm đạm khi chỉ số HaSTC-Index mất 0,48 điểm, ứng với 0,43%, hiện chỉ còn 110,9 điểm. Tổng lượng sang tên đạt 6,49 triệu cổ phiếu, giá trị 181,1 tỷ đồng.

Tập đoàn FPT thông báo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh tháng 10 và lũy kế 10 tháng đầu năm 2008.

Theo đó, trong tháng 10/2008 doanh số của tập đoàn đạt 80,1 triệu USD, tăng 2% so với tháng 10 năm 2007, lũy kế 10 tháng đầu năm đạt 842,5 triệu USD, tăng 30,7% so với cùng kỳ năm 2007 và đạt 85,2% kế hoạch năm.

Lợi nhuận trước thuế tháng 10 đạt 8,4 triệu USD, tăng 48,5% so với tháng 10 năm 2007, lũy kế 10 tháng đầu năm đạt 60,9 triệu USD, tăng 30,4% so với cùng kỳ năm 2007 và đạt 82,3% kế hoạch năm.

Trong 10 tháng đầu năm 2008, lĩnh vực phân phối mang lại cho tập đoàn 595,5 triệu USD doanh số, đạt 85,5% kế hoạch năm; tiếp đến là lĩnh vực tích hợp hệ thống đạt 121,1 triệu USD, hoàn thành 86,5% kế hoạch năm, telecom đạt 63,9 triệu USD, xuất khẩu phần mềm đạt 32,2 triệu USD và lĩnh vực đào tạo đạt 7,4 triệu USD.

Tập đoàn FPT dự kiến sẽ đạt được doanh số 1 tỷ USD vào cuối năm 2008.

Kết thúc phiên giao dịch ngày 19/11/2008, cổ phiếu FPT giảm 1.500 đồng/cổ phiếu (tương ứng 2,65%) ở mức 55.000 đồng/cổ phiếu với 336.540 cổ phiếu được giao dịch.

Ngày

Giá

Thay đổi

% thay đổi

Khối lượng

19/11/2008

55.000

-1.500

-2,65

336.540

18/11/2008

56.500

-1.500

-2,59

198.890

17/11/2008

58.000

-2.000

-3,33

217.640

14/11/2008

60.000

2.500

4,35

597.610

13/11/2008

57.500

-500

-0,86

865.170

Lê Hà

Chứng khoán ngày 19/11 đã có khởi đầu thuận lợi khi Vn-index tăng điểm trở lại đầu phiên giao dịch nhưng thanh khoản thị kém khiến chỉ số này tiếp tục giảm điểm phiên thứ 3 liên tiếp.

Mở cửa phiên giao dịch sáng nay, đón nhận thông tin thị trường chứng khoán Mỹ đã tăng trở lại trong phiên giao dịch kết thúc rạng sáng nay (theo giờ VN), chứng khoán niêm yết trên sàn GDCK Tp Hồ Chí Minh cũng tăng giá khá nhiều.

VN-Index theo đó kết thúc giao dịch đợt 1 hôm nay, đã có được mức tăng điểm nhẹ 2,24 điểm (tương đương tăng 0,65%) lên 342,93 điểm.

Tuy nhiên giao dịch trong đợt 1 vẫn khá yếu ớt, thanh khoản kém trước những thận trọng trong giao dịch khi chỉ có hơn 1,5 triệu chứng khoán được giao dịch với giá trị là 37,6 tỷ đồng.

Giao dịch ảm đạm và mức tăng của VN-Index chỉ duy trì đến giữa đợt khớp lệnh liên tục, lúc này VN-Index đã lại quay đầu giảm điểm trở lại. Kết thúc đợt 2, chỉ số này giảm 2,28 điểm (tương đương giảm 0,66%) xuống còn 338,41 điểm.

Giao dịch không được cải thiện nhiều khi cả đợt 2 này chỉ có hơn 7,1 triệu đơn vị được giao dịch với giá trị là 188,3 tỷ đồng.

Xu hướng giảm điểm duy trì đến hết phiên giao dịch và chỉ số VN-Index tiếp tục giảm điểm phiên thứ 3 liên tiếp khi để mất thêm 3,8 điểm (tương đương giảm 1,12%) đóng cửa ở mức 336,89 điểm.

Tổng khối lượng giao dịch của cổ phiếu và chứng chỉ quỹ được khớp lệnh tiếp tục suy giảm xuống mức khá thấp khi chỉ có hơn 9,1 triệu chứng khoán được chuyển nhượng với giá trị là 236,75 tỷ đồng. Giảm 10% về khối lượng và 5% về giá trị so với phiên trước đó.

Nhiều mã cổ phiếu không giữ được mức tăng trong đầu phiên và vẫn có 50% số mã niêm yết giảm giá. Cụ thể, trong tổng số 166 mã cổ phiếu và 4 chứng chỉ quỹ niêm yết, đã có 85 mã giảm giá (trong đó có 10 mã giảm sàn), 54 mã tăng giá (Trong đó có 7 mã tăng giá trần) còn lại là 29 mã đứng giá và 2 mã không có giao dịch là SFC của CTCP Nhiên liệu Sài Gòn và SGH của Khách sạn Sài Gòn.

Nhóm cổ phiếu mức vốn hoá lớn trên sàn hỗ trợ khá tốt trong đợt 1 nhưng chốt phiên ngoại trừ VIC của Vincom tăng giá nhẹ (+500 đồng lên 79.000 đồng/cp) thì các mã còn lại đều giảm giá, dù không mã nào nhóm này giảm sàn nhưng sự ảm đạm của các cổ phiếu này cũng đủ để VN-Index tiếp tục đi xuống.

Không có mã nào tăng nổi trên 2.000 đồng khi mà cổ phiếu tăng giá mạnh nhất (theo giá trị tuyệt đối) là mã TMS của Trasimex Saigon (+1.600 đồng), sau đó là TRC của Cao su Tây Ninh (+1.200 đồng), COM của COMECO (+1.100 đồng), DHG của Dược Hậu Giang (+1.000 đồng)...Trong khi đó SJS của Sudico giảm mạnh nhất (-3.000 đồng), LCG tiếp tục giảm sàn phiên thứ 2 (-2.400 đồng), TCT của Cáp treo Núi Bà Tây Ninh sau đó (-2.000 đồng)...

Về khối lượng giao dịch được khớp lệnh, ngoại trừ STB của Sacombank vẫn thanh khoản tốt (1,96 triệu cp) các mã còn lại đều được giao dịch khá yếu và không mã nào sau đó đạt trên 0,5 triệu đơn vị, cụ thể như DPM của Đạm Phú Mỹ (0,43 triệu cp), SSI của Chứng khoán Sài Gòn (0,4 triệu cp), FPT của Tập đoàn FPT (0,34 triệu cp), REE của Cơ điện Lạnh (0,3 triệu cp)...

Chi tiết giao dịch ngày 19/11:
(Đơn vị giá: 1.000đ; Đơn vị KL: 1 CP)

Mã CK

Giá cao nhất

Giá thấp nhất

Giá đóng cửa

Thay đổi

%Thay đổi

Khối lượng

ABT

28

27

27.5

-0.5

-1.79

2,990

ACL

27.9

27.2

27.5

-0.3

-1.08

2,470

AGF

17.3

16.9

17

0.1

0.59

20,790

ALP

9.6

9.4

9.5

0

0.00

19,520

ALT

24.2

22.8

24.2

0.4

1.68

1,350

ANV

21.9

21

21.3

-2.2

-9.36

179,890

ASP

10.9

10.6

10.6

0

0.00

13,610

BAS

11.9

10.9

11.9

0.5

4.39

1,020

BBC

15.5

15.1

15.1

0

0.00

23,490

BBT

6

6

6

0.2

3.45

37,790

BHS

14.4

14.2

14.2

0.2

1.43

800

BMC

76

73

73.5

-0.5

-0.68

24,000

BMI

19.1

18.5

18.5

0.1

0.54

6,620

BMP

33.7

30.9

31.4

-0.9

-2.79

9,800

BPC

11.8

11.6

11.8

0.2

1.72

4,240

BT6

55.5

55

55.5

-0.5

-0.89

530

BTC

22.8

22.6

22.8

-0.8

-3.39

1,140

CAN

12.7

12.6

12.7

0.6

4.96

86,110

CII

27.2

26.6

26.6

-0.6

-2.21

27,900

CLC

20.3

19.4

20

0.6

3.09

40,840

CNT

11.8

11.5

11.8

0.3

2.61

17,160

COM

33

30.5

33

1.1

3.45

6,800

CYC

12

11.7

11.7

-0.1

-0.85

3,780

DCC

12

11.4

11.8

0.2

1.72

2,810

DCL

32.4

31.4

32

-0.4

-1.23

27,450

DCT

9.6

9.2

9.4

-0.1

-1.05

27,590

DDM

15.6

15.3

15.5

-0.5

-3.13

47,490

DHA

20.7

20.3

20.5

0

0.00

7,520

DHG

114

113

114

1

0.88

22,180

DIC

16.7

16

16.1

-0.2

-1.23

17,190

DMC

56.5

55

55

-1.5

-2.65

43,610

DNP

10.2

9.9

9.9

-0.2

-1.98

1,110

DPC

11

10.2

11

0.3

2.80

400

DPM

40

38.9

39

-0.8

-2.01

427,010

DPR

34

33

33

0

0.00

11,900

DQC

18.2

17.6

17.6

-0.4

-2.22

29,830

DRC

21

20

20.4

0.2

0.99

16,870

DTT

11.3

10.5

10.5

-0.4

-3.67

2,550

DXP

24.7

24

24.3

0.1

0.41

3,930

DXV

7.8

7.6

7.6

-0.1

-1.30

12,470

FBT

15.5

15.2

15.2

0.3

2.01

6,830

FMC

11.8

11.7

11.7

-0.5

-4.10

6,250

FPC

19.5

19.5

19.5

0.5

2.63

20

FPT

57.5

55

55

-1.5

-2.65

336,540

GIL

15.4

15

15.1

0.1

0.67

13,890

GMC

15.4

14.5

15.4

0.5

3.36

1,470

GMD

34.5

33

34

-0.2

-0.58

9,390

GTA

9.3

9.3

9.3

0.3

3.33

310

HAP

20.9

20.3

20.3

-0.4

-1.93

40,400

HAS

12

11.7

12

0.1

0.84

560

HAX

17.8

17.5

17.5

-0.2

-1.13

15,190

HBC

18

17.5

17.6

0.1

0.57

20,020

HBD

11

11

11

0

0.00

2,200

HDC

23.8

23

23

0

0.00

5,800

HLA

19

18.9

18.9

-0.9

-4.55

20,730

HMC

14

13.8

13.8

-0.2

-1.43

4,930

HPG

32.1

31.5

31.6

-0.1

-0.32

210,710

HRC

32.2

31.9

32

0

0.00

57,150

HSI

12.8

12.6

12.6

-0.1

-0.79

30,940

HT1

14

13.9

14

0

0.00

12,500

HTV

10

9.8

10

0

0.00

3,510

ICF

8.4

8.3

8.4

0

0.00

1,750

IFS

8.3

8

8.1

-0.2

-2.41

2,780

IMP

70

68.5

69

-1

-1.43

6,760

ITA

30.2

29.3

29.9

0.6

2.05

127,940

KDC

33.1

31.8

31.8

0.2

0.63

129,900

KHA

14.2

13.7

13.9

0

0.00

49,870

KHP

11.3

10.9

11.2

0

0.00

4,240

KMR

7.3

7.1

7.1

-0.2

-2.74

19,570

KSH

15.6

15.6

15.6

-0.8

-4.88

1,000

L10

12.5

12

12.5

0.5

4.17

1,060

LAF

12.5

12

12.3

-0.2

-1.60

89,330

LBM

19

17.8

18.4

-0.1

-0.54

40,970

LCG

45.6

45.6

45.6

-2.4

-5.00

10

LGC

16.8

16

16.5

0

0.00

940

LSS

15.7

15.4

15.6

0

0.00

21,120

MAFPF1

4.2

4

4.2

0

0.00

22,250

MCP

15.4

15

15.1

-0.5

-3.21

23,500

MCV

11.2

10.9

11

0

0.00

17,150

MHC

10.1

9.9

9.9

-0.2

-1.98

15,840

MPC

12.2

11.8

11.8

-0.2

-1.67

60,070

NAV

14.7

13.8

13.8

-0.4

-2.82

46,030

NHC

43.3

42

42.9

0.9

2.14

11,800

NKD

33

31.9

31.9

-0.4

-1.24

6,230

NSC

27.2

26

26.8

0.3

1.13

3,480

NTL

38.7

38

38.1

0.1

0.26

22,080

OPC

31.4

31.4

31.4

-1.6

-4.85

17,200

PAC

40.5

40

40.5

-0.4

-0.98

16,470

PET

16.9

16.6

16.7

0.1

0.60

88,130

PGC

11.3

11.1

11.2

0

0.00

28,880

PIT

14.5

14

14

0

0.00

9,110

PJT

13.2

12.8

12.8

-0.2

-1.54

8,020

PMS

17.5

17.4

17.4

-0.9

-4.92

1,170

PNC

11

10.4

10.4

-0.1

-0.95

260

PPC

23.6

22.7

23

-0.5

-2.13

161,520

PRUBF1

4.2

4.1

4.1

0

0.00

50,880

PVD

71

67.5

68.5

-1

-1.44

163,260

PVF

20

19.3

19.3

-0.4

-2.03

252,630

PVT

17.9

17.4

17.4

-0.2

-1.14

72,650

RAL

29.5

29

29.4

-0.1

-0.34

6,010

REE

23.8

23.1

23.1

-0.8

-3.35

301,300

RHC

21.3

20

21.3

0.3

1.43

10,040

RIC

18.9

18.2

18.9

-0.1

-0.53

13,030

SAF

20

19

19.5

-0.2

-1.02

3,270

SAM

16.8

16.5

16.7

0.1

0.60

238,360

SAV

13.1

12.6

13

0.5

4.00

4,000

SBT

9.8

9.6

9.6

-0.1

-1.03

146,440

SC5

28.7

27.8

27.8

-0.4

-1.42

34,010

SCD

15.8

15.4

15.4

-0.5

-3.14

120

SDN

17.1

16.4

17.1

0

0.00

1,610

SFC






0

SFI

45.1

43.5

43.5

-1

-2.25

13,680

SFN

10.6

10.6

10.6

0.5

4.95

70

SGC

12.9

12.3

12.9

0.2

1.57

3,210

SGH






0

SGT

24.5

23.2

23.9

-0.3

-1.24

12,240

SHC

24.4

23

23

-0.5

-2.13

35,370

SJ1

15.5

15

15

-0.5

-3.23

730

SJD

14.5

14.1

14.1

-0.1

-0.70

1,160

SJS

74

70

70

-3

-4.11

102,250

SMC

22

21.8

21.9

-0.1

-0.45

18,400

SSC

22.4

20.6

20.6

-1

-4.63

5,010

SSI

32.5

31

31.5

-0.5

-1.56

405,840

ST8

25.6

25

25

-0.1

-0.40

3,110

STB

23.4

22.6

22.6

-0.5

-2.16

1,957,890

SZL

57

56.5

57

0.5

0.88

23,410

TAC

27

26.1

26.3

-0.6

-2.23

66,970

TCM

11.2

10.8

10.8

-0.5

-4.42

173,690

TCR

10

9.7

10

-0.2

-1.96

10,970

TCT

84.5

81

81

-2

-2.41

6,350

TDH

34.7

33.4

33.5

-1

-2.90

51,790

TMC

24.2

23

23.6

0.1

0.43

6,080

TMS

34.2

33

34.2

1.6

4.91

1,810

TNA

17.7

17.6

17.7

0.7

4.12

6,570

TNC

10.4

10.1

10.3

0.2

1.98

14,610

TPC

8.5

8.3

8.4

0

0.00

35,670

TRC

32.5

31.6

32.2

1.2

3.87

129,670

TRI

9.8

9.4

9.5

0

0.00

75,610

TS4

10

9.8

9.9

0

0.00

4,620

TSC

45.4

43.5

43.9

-0.1

-0.23

4,780

TTC

9.8

9.3

9.8

0.3

3.16

16,700

TTF

16.6

16.6

16.6

0.4

2.47

2,400

TTP

20.5

19.5

19.5

-0.5

-2.50

53,300

TYA

13.6

13

13.3

0.1

0.76

17,090

UIC

11.7

11.7

11.7

0.5

4.46

5,510

UNI

16

15.4

15.6

0.2

1.30

13,830

VFC

9.3

8.9

9.1

0.2

2.25

2,240

VFMVF1

8.9

8.7

8.8

0

0.00

49,970

VFMVF4

4.9

4.8

4.8

-0.1

-2.04

129,460

VGP

23

21

21

-1.1

-4.98

4,000

VHC

19.2

18.5

18.5

-0.7

-3.65

7,640

VHG

9

8.7

8.7

-0.3

-3.33

8,880

VIC

79.5

78.5

79

0.5

0.64

44,710

VID

10

9.7

9.8

-0.2

-2.00

21,190

VIP

12.4

12.1

12.2

0.1

0.83

248,140

VIS

25

23.6

24.2

0.2

0.83

30,500

VKP

8.4

8.4

8.4

0.2

2.44

4,010

VNA

23.3

22.3

22.3

0

0.00

94,580

VNE

7.7

7.5

7.5

-0.3

-3.85

146,840

VNM

85.5

85

85

-0.5

-0.58

60,140

VNS

19.5

19.2

19.5

0.3

1.56

37,130

VPK

8.8

8.5

8.5

0

0.00

2,220

VPL

96

95

95

-0.5

-0.52

50,840

VSC

60.5

58.5

58.5

-0.5

-0.85

12,390

VSG

13.4

13.4

13.4

0.6

4.69

10

VSH

28

27.2

27.5

0.3

1.10

203,300

VTA

8

7.6

7.9

0

0.00

7,620

VTB

15.6

15.5

15.6

0

0.00

4,120

VTC

11.1

10.8

10.8

-0.5

-4.42

9,700

VTO

13.5

13.1

13.3

-0.1

-0.75

254,710

ATPVietnam