Chứng khoán Mỹ hồi phục nhờ tin tốt

Saturday, December 13, 2008 |

Ngoại trừ phiên sụt giảm do kế hoạch 14 tỷ USD giải cứu công nghiệp ôtô bị từ chối, thì chứng khoán Mỹ đã có sự hồi phục khả quan, phần nào nhờ vào các báo cáo kinh tế vừa được công bố không tệ như dự kiến.

Trong phiên giao dịch cuối tuần ngày 13/12, chỉ số công nghiệp Dow Jones tăng 0,75%, tương ứng với 64,59 điểm, lên mức 8.629,68 điểm. Chỉ số Standard & Poor 500 đóng cửa tại 879,73 điểm, cao hơn tham chiếu 0,7%, ứng với 6,14 điểm. So với hai chỉ số trên, mức tăng 2,18%, ngang với 32,84 điểm, của chỉ số công nghệ Nasdaq là ấn tượng hơn nhiều. Chỉ số này kết thúc tuần tại 1.540,72 điểm.

Sau 5 phiên, đã có những diễn biến trái chiều giữa các chỉ số chính của thị trường Mỹ. Chỉ số Nasdaq và Standard & Poor 500 tăng lần lượt 2,08% và 0,41%, trong khi Dow Jones lại sụt nhẹ 0,07%.

Trước phiên tăng hôm qua, phố Wall đã trải qua một ngày giảm điểm khá mạnh khi cuộc bỏ phiếu tại Thượng viện cho kết quả không đồng thuận với kế hoạch giải cứu các nhà sản xuất ôtô. Cuộc đàm phàn vào đêm qua giữa Đảng Cộng hòa, Đảng Dân chủ, Công đoàn ngành công nghiệp xe hơi, và ba hãng sản xuất ôtô là Ford, Chrysler và General Motors đã khép lại mà không đi tới một thỏa hiệp nào.

Kế hoạch giải cứu 3 nhà sản xuất xe hơi hàng đầu tưởng chừng đã đi vào ngõ cụt khi thượng viện bác bỏ việc cho các công ty vay 14 tỷ đôla.
Ảnh: infiniteunknown.net.

Tuy nhiên, Nhà trắng vào hôm qua cho biết sẽ cân nhắc việc sử dụng nguồn 700 tỷ đôla, dùng để giải quyết nợ xấu cho các ngân hàng và tập đoàn tài chính (TARP), vào việc giải cứu ba nhà sản xuất xe hơi hàng đầu.

Bộ Tài chính, cơ quan điều hành quỹ TARP, tuyên bố sẵn sàng dùng tiền như một giải pháp ngắn hạn cho đến khi Quốc hội có thể họp và đưa ra các giả pháp dài hạn hơn cho ngành công nghiệp xe hơi đang xuống dốc của nước Mỹ.

Bên cạnh thông tin hỗ trợ trên, phố Wall phiên cuối tuần còn tiếp nhận nhiều tin tức kinh tế quan trọng khác. Doanh số bán lẻ giảm 1,8% trong tháng 11, sau khi mất 2,9% vào tháng trước. Các nhà kinh tế dự báo doanh số bán lẻ sẽ giảm 2%. Doanh số bán lẻ, sau khi loại trừ những biến động của ngành công nghiệp sản xuất xe hơi, đi xuống 1,6%, khả quan hơn dự đoán rơi 1,8% của các chuyên gia, và có một bước tiến khá lớn so với mức giảm 2,4% của tháng trước.

Chỉ số giá sản xuất (PPI), một thước đo lạm phát, tiếp tục lùi thêm 2,2% trong tháng 11 sau khi đã bị trừ 2,8% trong tháng 10. Các chuyên gia dự đoán, PPI giảm 2%. Chỉ số PPI lõi, đã loại trừ chi phí cho năng lượng và nhiên liệu, tăng 0,1%, đúng như dự đoán của giới phân tích.

Bên cạnh đó, theo báo cáo của Đại học Tổng hợp Michigan, chỉ số niềm tin người tiêu dùng tháng vừa qua chuyển biến khá tích cực, tăng lên thành 55,3, cao hơn ngưỡng dự đoán 54,5 điểm. Chính phủ Mỹ cho biết thêm, dự trữ cho hoạt động kinh doanh giảm 0,6% trong tháng 10, trái với mức dự đoán giảm 0,2%.

Trong khi các tín hiệu vĩ mô đang xuất hiện những nét tích cực thì vẫn có những diễn biến bất lợi từ phía các công ty. Ngân hàng hàng đầu, Bank of America, thông báo sẽ cắt giảm 35 nghìn việc làm trong 3 năm tới. Lý do mà tập đoàn này đưa ra là việc sáp nhập Merrill Lynch đã khiến bộ máy nhân sự của hãng trở nên cồng kềnh, thêm vào đó kinh tế suy yếu cũng khiến cắt giảm chi phí trở nên cấp thiết.

Tại Sở Giao dịch New York, dầu giảm nhẹ 1,7 đôla, đứng ở mốc 46,28 đôla một thùng sau phiên vừa qua 12/12.

Trái với sự hồ hởi tại phố Wall, phiên cuối tuần tại thị trường châu Á và châu Âu lại diễn ra trong bầu không khí ảm đạm.

Hàng loạt chỉ số chính tại châu Á cùng lao dốc do thông tin bất lợi trước đó từ phố Wall vào phiên trước. Chỉ số Nikkei 225 của Nhật sụt 5,56% trong đó cổ phiếu của các nhà xuất khẩu bị ảnh hưởng nhiều nhất do đôla mất giá so với đồng yên. Chỉ số Hang Seng của Hong Kong bị trừ 5,48%. Chỉ số Shanghai Composite của chứng khoán Trung Quốc hạ thấp 3,81%. Chỉ số KOSPI của Hàn Quốc đóng của dưới tham chiếu 4,28%.

Dẫu sao, so với tuần trước, phần lớn các chỉ số chính của thị trường châu Á đều có những bước tiến đáng kể. Nikkei 225 tăng 4%, Shanghai giảm 3,1%, chỉ số Hang Seng tăng 6,5%. Chỉ số KOSPI đương cộng 7,36%.

Tại châu Âu, cổ phiếu của khối ngân hàng và năng lượng sụt mạnh và là "thủ phạm" cho ngày giảm điểm cuối tuần. Chỉ số FTSE 100 của Anh trượt dốc 2,47%. Thị trường Pháp chứng kiến chỉ số CAC 40 của nước này giảm 2,8%. Chỉ số DAX của chứng khoán Đức rớt giá 2,18%.

Sau tuần qua, ba chỉ số FTSE, DAX và CAC 40 tăng lần lượt 5,7%, 6,4%, và 10,6%.

Thống kê của các sàn địa ốc lớn nhất Sài Gòn, nhà đất dự án đầu tháng 12 đang tiếp tục đứng hoặc rớt giá 2-5% sau 3 quý suy giảm. Tình hình trì trệ này được các chuyên gia nhận định sẽ kéo dài đến hết năm sau.

Khảo sát từ hệ thống sàn giao dịch Vinaland đầu tháng 12 cho thấy, biểu đồ giá nhà đất khu Đông và Nam Sài Gòn đều đi ngang, thời gian gần đây còn hạ thấp hơn so với trước đó.

Chỉ số do Vinaland thu thập được cho thấy, đất nền và biệt thự trên cao (penthouse) có xu hướng giảm giá nhiều hơn căn hộ thông thường. Đơn cử đất nền ở khu Đông Thủ Thiêm giảm giá 7,7%, đất nền dự án Thế kỷ 21, Phú Mỹ ở ven sông giảm từ 5,3 đến 6,7%.

Còn căn penthouse trong dự án An Hòa, An Cư, Blooming Park bị mất giá từ 4,5 đến 8,7% so với tháng trước. Căn hộ trong nhiều dự án cao cấp như: The Vista, Richland Hill, Thảo Điền River View... cũng bị giảm 1-2 triệu đồng mỗi m2 so với tháng 11.

Biểu đồ cho thấy giá đất nền trong các dự án vẫn tiếp tục giảm.

Riêng nhà đất trong khu vực Phú Mỹ Hưng đứng giá chứ không giảm thêm. Nhiều nhà đầu tư cho rằng dự án trong đô thị Phú Mỹ Hưng vẫn ổn định trên thị trường do tác động của thông tin giá đất năm 2009. Theo dự kiến, khu này sẽ điều chỉnh tăng giá 50-70% so với trước đây.

Tương tự, khảo sát từ hệ thống sàn bất động sản Sacomreal cũng không có nhiều biến động so với cuối tháng 11. Hầu hết các dự án căn hộ cao cấp từng làm mưa làm gió cuối năm 2007 như: The BMC Hưng Long, Phú Mỹ, The Maison, New Saigon...đều đứng giá hoặc giảm trung bình 1 triệu đồng mỗi m2 sau nhiều đợt rớt giá trong năm.

Tuy nhiên, khảo sát, địa ốc Sài Gòn tuy không còn giảm giá sâu đến 70% như thời kỳ tháng 3 đến tháng 8, song quyền mua căn hộ đã rớt giá mạnh. Đơn cử như dự án BMC, The Mainson lô 2, nhà đầu tư bị bốc hơi khoản tiền 200-500 triệu đồng quyền mua căn hộ vì không sang nhượng được.

Thống kê của đơn vị tư vấn bất động sản CBRE, sau một năm nhìn lại, tính từ tháng 11/2007 đến hết tháng 11 năm nay, giá căn hộ cao cấp tại Sài Gòn giảm cao nhất 52%.

Cụ thể, căn hộ Phú Mỹ Hưng, dự án The Grand View từ 2.400 USD giảm xuống còn 1.145 USD mỗi m2. Dự án căn hộ cao cấp Saigon Pearl từ khung 3.500 USD đã hạ dần xuống mức 2.500 USD mỗi m2. The Manor I năm ngoái còn được thị trường chấp nhận giá 3.500 USD nay chỉ còn 2.400 USD mỗi m2. Cantavil Hoàn Cầu, Hùng Vương Plaza cũng mất 900-1.100 USD mỗi m2.

Chuyên gia kinh tế Đinh Thế Hiển nhận định: "Thị trường bất động sản cuối năm 2008 lún sâu vào giai đoạn suy thoái. Mức độ mua bán vẫn giảm 80-90% so với cuối năm 2007, chưa thể vực dậy nổi".

Chuyên gia này phân tích, từ nay đến năm 2009 sẽ khó có biến chuyển mới trên thị trường bất động sản. Theo đó năm Kỷ Sửu sẽ là thời kỳ khó khăn vì tất cả các yếu tố quan trọng thúc đẩy phát triển đang bị suy giảm và cuối năm 2010 thị trường địa ốc mới có dấu hiệu tan băng.

Do hiệu ứng của suy thoái kinh tế toàn cầu, bất động sản cao cấp sẽ càng khó khăn hơn, ngoài ra năm 2007 đã xuất hiện quá nhiều bong bóng ở phân khúc thị trường này. Trục giá cả trong tương lai cũng sẽ khó quay lại thời kỳ vàng son cuối năm 2007. Hiện giá bất động sản trong thời điểm này tuy giảm 60-70% nhưng chưa phải giá trị thật sự, ít nhất phải chạm khung giá năm 2006 mới đáng gọi là thấp.

Phản đối thông điệp bất động sản đã giảm sâu, không thể giảm thêm, ông Hiển cho rằng đó là thái độ thiếu thiện chí của các tập đoàn kinh doanh địa ốc và nhiều tổ chức đầu tư bất động sản.

Các dự án tại quận 2, 7, 9 và khu Nam Sài Gòn, theo ghi nhận của ông Hiển, từng có giá 8 triệu đồng mỗi m2 hồi năm 2006, giữa năm 2007 đã nhanh chóng vọt lên thành 16 triệu và cuối năm là 30 triệu đồng mỗi m2. "Trên thực tế hiện nay vẫn chưa có dự án nào trở về mức 8 triệu đồng, giá trị đã mất đi chẳng qua chỉ là phần hơi bị xì của quả bong bóng được thổi phồng lên", ông Hiển khẳng định.

Theo nhiều chuyên gia kinh tế tại TP HCM, khác với chu kỳ bất động sản thế giới thường kéo dài 10 năm, ở Việt Nam chu kỳ này ngắn hơn, chỉ kéo dài tối đa 5 năm. Nguyên nhân là nguồn vốn đầu tư vào thị trường địa ốc của Việt Nam chỉ xoay trở trong ngắn hạn và ảo tưởng siêu lợi nhuận ám ảnh các nhà đầu tư tin rằng bất động sản chỉ có đi lên hoặc đi ngang chứ khó giảm giá. Song quy luật chung là đầu tư an toàn cho lợi nhuận thấp, càng siêu lợi nhuận thì càng nhiều rủi ro.(Nguồn: VNE, 12/12)

-Chứng khoán ngày cuối tuần có phiên giao dịch đầy ấn tượng khi chỉ số VN-Index tăng mạnh, lấy lại được toàn bộ số điểm để mất trong 4 ngày trước đó.

Dù chưa khẳng định được xu hướng giao dịch của khối ngoại nhưng dường như sau 2 phiên mua ròng vừa qua trên cả 2 sàn của khối này đã phần nào giải toả tâm lý giới đầu tư.

Trong khi đó ở một số công ty niêm yết, việc công bố mua vào số lượng cổ phiếu quỹ khá lớn cũng như cổ đông nội bộ đăng ký mua vào cũng là lực thúc đẩy thị trường.

Phiên này VN-Index đã “lạc điệu” với thị trường chứng khoán thế giới khi chứng khoán Mỹ đêm qua lại giảm điểm khá mạnh còn thị trường khu vực Châu Á cũng đang giảm điểm trong phiên buổi sáng này.

Kết thúc giao dịch đợt 1 ngày 12/12, chỉ số VN-Index tăng khá mạnh 6,58 điểm (tương đương tăng 2,27%) lên 295,51 điểm.

Giao dịch tăng rõ rệt cùng với chiều hướng thuận lợi của thị trường với hơn 1,8 triệu đơn vị, giá trị tương đương là 41,457 tỷ đồng. Trong đợt 1 nhiều phiên trước đây, giao dịch khá thấp, thậm chí còn không đầy 1 triệu đơn vị.

Sức cầu tăng lên khá mạnh, VN-Index trong đợt 2 tiếp tục nâng cao số điểm có được, và kết thúc đợt 2, chỉ số này tăng mạnh 10,11 điểm (tương đương tăng 3,49%) lên 299,04 điểm. Khối lượng giao dịch đạt hơn 10,7 triệu đơn vị với giá trị là 242,771 tỷ đồng.

Chung cuộc, với phiên tăng điểm mạnh hôm nay, những điểm số để mất trong 4 phiên trước đó, VN-Index đã lấy lại được khi kết thúc giao dịch lại về sát ngưỡng 300 điểm. Cụ thể, VN-Index tăng mạnh 10,61 điểm (tương đương tăng 3,67%) lên 299,54 điểm.

Như vậy so với mức đóng cửa cuối tuần trước là 299,68 điểm, VN-Index kết thúc tuần này giảm không đáng kể 0,14 điểm, tức chỉ giảm 0,05%.

Tổng khối lượng giao dịch khớp lệnh của cổ phiếu và chứng chỉ quỹ tăng mạnh so với phiên trước đó và đạt mức cao nhât từ đầu tháng 12 đến nay với gần 11,8 triệu đơn vị và giá trị là 265,27 tỷ đồng.

Như vậy đã tăng 56% về khối lượng và tăng 44% về giá trị so với phiên giao dịch hôm qua, nhưng mức giao dịch này vẫn ở mức trung bình khi bên bán hạn chế bán ra trong phiên hôm nay khi dư bán còn rải rác ở một số mã trên bảng điện tử, trong khi đó dư mua còn khá nhiều.

Cổ phiếu ồ ạt tăng giá với gần 92% mã chứng khoán niêm yết tăng điểm phiên này. Trong tổng số 168 mã cổ phiếu và 4 chứng chỉ quỹ niêm yết, đã có 158 mã tăng giá (trong đó 112 mã tăng giá trần), vỏn vẹn 8 mã giảm giá (trong đó 3 mã giảm sàn), 4 mã giữ mức tham chiếu và 2 mã không có giao dịch là CLC của CTCP Cát Lợi và DPC của CTCP Nhựa Đà Nẵng.

Nhóm 10 cổ phiếu có mức vốn hoá lớn chỉ duy nhất VPL của Du lịch Thương mại Vinpearl nằm trong số 3 cổ phiếu giảm sàn, các cổ phiếu khác đều tăng giá kịch trần với lượng dư bán không còn.

Những cổ phiếu giảm giá ngoài VPL còn có HSG của Tập đoàn Hoa Sen vẫn chưa dứt mạch giảm giá từ khi lên sàn khi tiếp tục nằm sàn và BTC của Cơ khí Xây dựng Bình Triệu. Các cổ phiếu giảm giá khác là L10 của Lilama 10, PMS của Cơ khí Xăng dầu, FPC của Full Power và SFC của Dệt lưới Sài Gòn.

Các cổ phiếu được giao dịch nhiều nhất vẫn là các Blue-chips, trong đó STB của Sacombank vững vàng ngôi đầu (2,24 triệu cp), REE của Cơ điện Lạnh (1,14 triệu cp), VIP của VIPCO (0,64 triệu cp), HPG của Hoà Phát (0,5 triệu cp), DPM của Đạm Phú Mỹ (0,44 triệu cp)...

Chi tiết giao dịch ngày 12/12:
(Đơn vị giá: 1.000đ; Đơn vị KL: 1 CP)

Mã CK

Giá cao nhất

Giá thấp nhất

Giá đóng cửa

Thay đổi

%Thay đổi

Khối lượng

ABT

25.4

24.8

25.4

1

4.10

5,060

ACL

19.4

19.4

19.4

0.9

4.86

32,880

AGF

15.2

14.3

15

0.5

3.45

18,620

ALP

8.9

8.6

8.9

0.4

4.71

48,880

ALT

18.8

17.8

18.2

0.1

0.55

2,360

ANV

18.1

17.5

18.1

0.6

3.43

142,620

ASP

11.8

11.6

11.7

0.4

3.54

79,890

BAS

10.8

10.8

10.8

0.5

4.85

500

BBC

14

13.7

14

0.5

3.70

27,120

BBT

4.4

4.4

4.4

0.1

2.33

9,280

BHS

15.4

14.9

15

0.2

1.35

8,750

BMC

69.5

68.5

69.5

3

4.51

43,730

BMI

15.2

14.6

15.2

0.7

4.83

13,410

BMP

30.5

28.7

30.5

1

3.39

18,200

BPC

9.6

9.4

9.5

0.3

3.26

1,350

BT6

37.4

37.4

37.4

1.7

4.76

320

BTC

20.9

20.9

20.9

-1.1

-5.00

20

CAN

10

9.9

9.9

0.2

2.06

3,320

CII

25.7

25

25.7

1.2

4.90

36,770

CLC






0

CNT

10.4

10.1

10.4

0.3

2.97

11,200

COM

35

34.5

35

0.1

0.29

12,100

CYC

9.8

9.6

9.8

0.4

4.26

10,110

DCC

9.6

9.6

9.6

0.4

4.35

12,100

DCL

28.3

28

28.3

1.3

4.81

39,270

DCT

9

8.7

9

0.4

4.65

42,110

DDM

11.9

11.5

11.9

0.5

4.39

30,680

DHA

18.5

18

18.5

0.5

2.78

11,420

DHG

126

125

126

6

5.00

54,740

DIC

14.5

14

14.5

0.5

3.57

15,560

DMC

53

51.5

53

1.5

2.91

5,770

DNP

8.6

8.4

8.4

0.1

1.20

5,420

DPC






0

DPM

32.9

32

32.9

1.5

4.78

468,640

DPR

31

29

31

1.4

4.73

17,190

DQC

16.3

16

16.3

0.7

4.49

31,060

DRC

17

16.3

17

0.8

4.94

29,470

DTT

9.8

9.8

9.8

0.2

2.08

1,000

DXP

18.5

18.4

18.5

0.8

4.52

10,140

DXV

6.2

6

6.2

0.2

3.33

15,360

FBT

15.2

14.5

15.2

0.7

4.83

15,510

FMC

11.7

11.2

11.7

0.5

4.46

40,550

FPC

19

19

19

-0.3

-1.55

60

FPT

50.5

50

50.5

2.3

4.77

426,360

GIL

14.2

14

14.2

0.6

4.41

16,430

GMC

14.1

13

14.1

0.6

4.44

5,300

GMD

25.2

25.1

25.2

1.2

5.00

106,370

GTA

7.8

7.5

7.8

0.3

4.00

1,470

HAP

14.4

13.9

14.4

0.6

4.35

72,560

HAS

10.6

10

10.6

0.5

4.95

10,110

HAX

14.5

13.4

14.5

0.5

3.57

1,410

HBC

14.7

14.6

14.7

0.7

5.00

24,010

HBD

10.6

10

10.6

0.1

0.95

3,710

HDC

20.5

20

20.5

0.9

4.59

6,810

HLA

12.9

12.2

12.8

0

0.00

32,090

HMC

11.5

10.9

11.5

0.5

4.55

22,400

HPG

29

28

29

1.3

4.69

501,270

HRC

27.8

27

27.5

1

3.77

13,700

HSG

24.9

24.9

24.9

-1.3

-4.96

510

HSI

11.2

10.5

11

0.3

2.80

9,910

HT1

13.3

13.1

13.3

0.6

4.72

38,200

HTV

8.6

8.6

8.6

0.4

4.88

8,180

ICF

7

6.7

7

0.3

4.48

19,890

IFS

7.9

7.3

7.9

0.3

3.95

13,270

IMP

62

61

62

2.5

4.20

7,810

ITA

26.1

26

26.1

1.2

4.82

100,970

KDC

26.6

26.2

26.6

1.2

4.72

150,030

KHA

11.9

11.7

11.9

0.5

4.39

63,940

KHP

10

9.6

10

0.4

4.17

22,750

KMR

5.8

5.7

5.8

0.2

3.57

17,780

KSH

12.9

12.9

12.9

0.6

4.88

24,870

L10

10.2

9.6

9.6

-0.2

-2.04

30,590

LAF

9.5

9.2

9.5

0.4

4.40

27,110

LBM

14.5

13.9

14.5

0.6

4.32

62,140

LCG

29.5

29.5

29.5

1.4

4.98

26,950

LGC

19.2

17.8

19.2

0.9

4.92

4,670

LSS

13.8

13.5

13.7

0

0.00

16,450

MAFPF1

3.9

3.7

3.9

0.1

2.63

34,930

MCP

13.7

13.6

13.7

0.6

4.58

19,000

MCV

8.4

8.1

8.4

0.4

5.00

32,440

MHC

7.8

7.8

7.8

0.3

4.00

12,000

MPC

11.5

11

11.5

0.5

4.55

50,440

NAV

9.6

9.2

9.6

0.4

4.35

26,590

NHC

30.4

30.2

30.4

1.4

4.83

12,130

NKD

24.9

24.9

24.9

1.1

4.62

16,500

NSC

22.2

22

22.2

1

4.72

4,700

NTL

31.7

31.7

31.7

1.5

4.97

40,630

OPC

24.2

24.2

24.2

1.1

4.76

2,390

PAC

35.9

34.5

35.9

1.4

4.06

21,740

PET

14.3

14.1

14.3

0.6

4.38

128,380

PGC

10

9.8

10

0.4

4.17

26,910

PIT

12.3

12.2

12.3

0.5

4.24

7,080

PJT

11.3

10.8

11.3

0.5

4.63

23,400

PMS

18.5

17.5

17.5

-0.6

-3.31

1,300

PNC

9.3

9.1

9.3

0.3

3.33

10,380

PPC

16

15.7

16

0.7

4.58

314,300

PRUBF1

4

3.9

4

0.1

2.56

144,060

PVD

70

68

70

2.5

3.70

148,730

PVF

16.3

15.8

16.3

0.7

4.49

444,000

PVT

15.2

15

15.2

0.7

4.83

161,470

RAL

20.5

20.2

20.5

0.7

3.54

25,620

REE

22.4

22.1

22.2

0.8

3.74

1,141,310

RHC

21.5

21

21.5

0.5

2.38

2,320

RIC

17

16.9

17

0.8

4.94

11,060

SAF

19.3

18.9

19.3

0.7

3.76

1,160

SAM

14.4

14.2

14.4

0.6

4.35

280,900

SAV

13.9

13.4

13.9

0.2

1.46

2,950

SBT

7.7

7.4

7.7

0.3

4.05

65,150

SC5

19.8

19.8

19.8

0.9

4.76

81,680

SCD

13.3

13

13.3

0.3

2.31

2,560

SDN

18.2

18.1

18.2

0

0.00

7,280

SFC

48.9

46.6

48

-1

-2.04

7,950

SFI

32.5

32

32.5

1.5

4.84

24,800

SFN

9.6

9.6

9.6

0.3

3.23

110

SGC

9.9

9.5

9.9

0.4

4.21

8,430

SGH

56

56

56

2.5

4.67

770

SGT

26.2

26.2

26.2

1.2

4.80

24,410

SHC

18.7

18.6

18.7

0.8

4.47

6,180

SJ1

11

11

11

0.5

4.76

50

SJD

14.3

14

14.3

0.6

4.38

8,760

SJS

45.7

45.7

45.7

2.1

4.82

5,970

SMC

20.1

20

20.1

0.9

4.69

54,870

SSC

18.8

17.3

18

-0.2

-1.10

8,220

SSI

28

28

28

1.3

4.87

244,110

ST8

19

18

19

0.9

4.97

1,990

STB

19

18.6

19

0.9

4.97

2,242,530

SZL

54.5

53

54.5

2

3.81

10,070

TAC

21.7

21.6

21.7

1

4.83

69,800

TCM

9

8.8

9

0.4

4.65

87,600

TCR

7.9

7.5

7.9

0.1

1.28

4,830

TCT

80.5

79

80.5

3.5

4.55

4,920

TDH

28.7

28.6

28.7

1.3

4.74

119,340

TMC

21

20.5

21

1

5.00

11,000

TMS

38

38

38

1.6

4.40

230

TNA

17

16.5

16.6

0.1

0.61

5,000

TNC

9.1

8.7

9.1

0.1

1.11

18,310

TPC

7.4

7.2

7.4

0.3

4.23

49,090

TRA

42.4

42.4

42.4

2

4.95

22,500

TRC

23.1

22.9

23.1

1.1

5.00

39,000

TRI

7.3

7.1

7.3

0.3

4.29

17,910

TS4

7.8

7.8

7.8

0.3

4.00

15,510

TSC

32.9

32.8

32.9

1.5

4.78

10,740

TTC

8.1

7.6

8.1

0.2

2.53

57,050

TTF

12.1

11.7

12.1

0.5

4.31

12,770

TTP

17.6

17.3

17.6

0.8

4.76

66,230

TYA

11.4

11.1

11.4

0.5

4.59

39,630

UIC

9.7

9.5

9.7

0.4

4.30

20,800

UNI

12.6

11.7

12.6

0.6

5.00

3,580

VFC

7.3

7.1

7.3

0.2

2.82

13,200

VFMVF1

7.4

7.2

7.4

0.3

4.23

166,920

VFMVF4

3.9

3.8

3.9

0.1

2.63

259,440

VGP

20

19.8

20

0.1

0.50

2,230

VHC

21

20

20

0

0.00

11,030

VHG

6.6

6.4

6.6

0.2

3.12

18,780

VIC

82.5

80.5

82.5

3.5

4.43

37,270

VID

9.4

9

9.4

0.3

3.30

35,690

VIP

10.1

10

10.1

0.4

4.12

636,010

VIS

23.1

23

23.1

1.1

5.00

16,440

VKP

6.7

6.4

6.7

0.3

4.69

20,960

VNA

14.1

14

14.1

0.6

4.44

35,820

VNE

6.5

6.3

6.5

0.3

4.84

67,380

VNM

81.5

79.5

81.5

3.5

4.49

225,990

VNS

17.5

17.3

17.4

0.1

0.58

39,960

VPK

7.7

7.4

7.7

0.3

4.05

6,660

VPL

85

84.5

84.5

-4

-4.52

54,990

VSC

55

54.5

55

0.5

0.92

10,470

VSG

10

9.2

10

0.4

4.17

21,690

VSH

28

27.7

28

0.5

1.82

80,670

VTA

6.3

6.3

6.3

0.3

5.00

1,740

VTB

14.3

14.3

14.3

0.5

3.62

60

VTC

8.7

8.2

8.7

0.4

4.82

1,910

VTO

11.8

11.7

11.8

0.5

4.42

133,480


ATPVietnam