Mưa tin xấu trút xuống phố Wall

Monday, November 10, 2008 |

Tin Chính phủ Trung Quốc dùng 586 tỷ đôla để xốc lại nền kinh tế đã tác động tốt lên thị trường cổ phiếu châu Á hôm qua, song không đủ giúp phố Wall tránh phiên giảm do thông tin u ám từ các tập đoàn Mỹ.

Cả ba chỉ số chính đều tăng vào đầu giờ giao dịch nhưng cùng kết thúc phiên 10/11 với số điểm trừ. Chỉ số công nghiệp Dow Jones giảm 0,82%, xuống mức 8.870,54 điểm. Chỉ số Nasdaq đang ở mức 1.616,74 điểm, thấp hơn phiên trước 1,86%. Chỉ số Standard & Poor 500 (S&P 500) bị trừ 1,27%, đóng cửa tại 919,21 điểm.

Chính quyền Liên bang vừa cho biết đang cơ cấu lại các khoản vay của tập đoàn bảo hiểm AIG. Cụ thể, kế hoạch trên sẽ gồm việc mua lại 50 tỷ đôla cổ phiếu ưu đãi, hạ mức vay bắc cầu ban đầu từ 85 tỷ đôla xuống còn 60 tỷ đôla, đồng thời lãi suất cũng được giảm xuống. Như vậy, tổng số tiền bơm vào AIG sẽ có giá trị khoảng 152,5 tỷ đôla, cao hơn nhiều so với dự định ban đầu. Cùng ngày, AIG thông báo quý III lỗ tới 24,5 tỷ đôla. Fannie Mae, một đại gia tài chính khác, từng được Chính phủ bảo trợ, thậm chí còn thiệt hại nặng hơn khi mất tới 29 tỷ đôla sau 9 tháng đầu năm.

Liên tiếp các tin xấu trút xuống phố Wall trong phiên đầu tuần đã khiến các chỉ số chính đồng loạt sụt giảm. Ảnh: Bloomberg.com.
Liên tiếp các tin xấu trút xuống phố Wall trong phiên đầu tuần đã khiến các chỉ số chính đồng loạt sụt giảm. Ảnh: Bloomberg.com.

Cổ phiếu của các tập đoàn sản xuất ôtô vẫn trong cơn khốn đốn. Từ đó khiến nỗi lo Chính phủ phải bảo trợ các hãng này càng trở nên rõ nét hơn. Hai đại gia General Motors và Ford lần lượt đi xuống 23% và 4,5%. Vào thứ sáu tuần trước, GM thậm chí còn cho hay đang chịu lỗ nặng và đã hết tiền mặt. Cùng với Chrystler, hai hãng trên đang cầu viện sự hỗ trợ từ phía Chính phủ.

Tin xấu vẫn chưa buông tha phố Wall khi Tập đoàn chuyển phát DHL thông báo sẽ cắt giảm tới 9.500 việc làm. Quyết định trên được đưa ra do hãng đang dự định ngừng hoạt động trong thị trường Mỹ và chỉ tập trung vào hoạt động chuyển phát giữa Mỹ và thị trường Quốc tế. Hãng bán lẻ đồ điện tử Circuit City sau khi tuyên bố, vào tuần trước, sẽ cắt giảm 17% nhân công và đóng cửa 150 cửa hàng do suy thoái kinh tế, đã nộp đơn xin bảo hộ phá sản vào phiên đầu tuần. Điểm sáng của ngày giao dịch đến từ McDonald. Hãng cho hay, doanh số bán hàng trên toàn cầu tăng 8,2% trong tháng 10.

Thị trường châu Âu phản ứng tích cực trước thông tin từ Trung Quốc. Chỉ số FTSE 100 của Anh tiến thêm 0,89%. Chỉ số DAX của Đức đi lên 1,76%. Chứng khoán Pháp có phiên giao dịch khá lạc quan với mức điểm cộng 1,06% cho chỉ số CAC 40.

Chứng khoán Trung Quốc dẫn dắt thị trường châu Á lên điểm. Sau khi gói giải pháp kích thích kinh tế được thông qua, chỉ số Shanghai Composite đi lên 7,27%. Chỉ số Hang Seng của Hong Kong cộng thêm 3,52%. Chỉ số KOSPI của Hàn Quốc đóng cửa cao hơn phiên trước 1,58%.

Tại Nhật, cổ phiếu của các nhà sản xuất máy công nghiệp tăng mạnh do giới đầu tư dự đoán kế hoạch tái thiết nền kinh tế sẽ tác động tốt tới hoạt động kinh doanh của các hãng trên. Bên cạnh đó, đôla tăng giá so với yen tiếp tục mang lợi cho cổ phiếu của các nhà xuất khẩu. Chỉ số Nikkei 225 từ đó đi lên 5,81%.

Tuy nhiên, sáng nay chứng khoán châu Á đồng loạt trượt dốc. Tính tới 9h50, Nikkei 225 xuống 3,3%. Hang Seng mất 2,99%. Chỉ số Shanghai Composite sụt 1,01%. KOSPI mất 2,45%.

-Nỗ lực tăng điểm trở lại phiên giao dịch đầu tuần này đã không tạo được đà tăng điểm cho phiên hôm nay mà trái ngược hoàn toàn khi chứng khoán bất ngờ đồng loạt giảm giá khiến thị trường chứng khoán lại đỏ sàn.

Trước phiên giao dịch hôm nay diễn ra, tâm lý giới đầu tư lại một lần bị tác động từ thị trường chứng khoán thế giới phần nào khi trong phiên giao dịch đêm qua (theo giờ VN), chứng khoán Mỹ đã lại đi xuống trong khi đó lúc này tại thị trường khu vực Châu Á, sắc đỏ cũng là màu chủ đạo tại nhiều thị trường.

Ngay khi kết thúc đợt khớp lệnh định kỳ xác định giá mở cửa, chỉ số VN-Index đã đảo chiều giảm mạnh 10,5 điểm (tương đương giảm 2,87%) xuống còn 355,5 điểm. Giao dịch giảm mạnh khi chỉ còn hơn 2,6 triệu chứng khoán được giao dịch với giá trị là 80,47 tỷ đồng.

Xu hướng giảm mạnh của thị trường khiến nhiều cổ phiếu niêm yết tiếp tục mất giá mạnh hơn, VN-Index theo đó cũng tiếp tục giảm mạnh và kết thúc đợt khớp lệnh liên tục, tổng số điểm VN-Index mất đi là 13,97 điểm (tương đương giảm 3,82%) xuống còn 352,03 diểm.

Khối lượng giao dịch sau đợt 2 này cũng chỉ có 12,79 triệu đơn vị được chuyển nhượng với giá trị là 347 tỷ đồng.

Mức giảm mạnh từ đầu phiên đã khiến VN-Index không có diễn biến nào thay đổi tình hình, kết thúc đợt 3 - đợt khớp lệnh xác định giá đóng cửa cũng là đợt chỉ số này giảm mạnh nhất.

Cụ thể, kết thúc phiên giao dịch sáng nay (11/11) chỉ số VN-Indexx giảm mạnh 14,29 điểm (tương đương giảm 3,9%) đóng cửa ở mức 351,71 điểm.

Tổng khối lượng giao dịch qua khớp lệnh của cổ phiếu và chứng chỉ quỹ phiên này tiếp tục giảm xuống với hơn 14,27 triệu chứng khoán được chuyển nhượng với giá trị là 382,92 tỷ đồng. Như vậy đã giảm gần 6% về khối lượng và 12% về giá trị so với phiên hôm qua.

Phiên này sàn HOSE tiếp tục có thêm lượng hàng hoá mới khi có thêm 9,6 triệu cổ phiếu của CTCP BASA niêm yết lần đầu với mã chứng khoán BAS. Giá tham chiếu trong ngày giao dịch hôm nay của BAS được xác định là 18.000 đồng/cp và biên độ dao động giá là 20%.

Như vậy hiện tại sàn GDCK Tp Hồ Chí Minh đã có 168 mã chứng khoán niêm yết trong đó có 164 mã cổ phiếu và 4 chứng chỉ quỹ, cổ phiếu mới lên sàn gần nhất là PVF của Tổng Công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí - PVFC.

Theo thống kê, trong tổng số 164 mã cổ phiếu và 4 chứng chỉ quỹ này, kết thúc giao dịch đã có trên 80% mã giảm giá. Cụ thể, đã có 137 mã giảm giá (trong đó có 78 mã giảm giá sàn), vỏn vẹn 21 mã tăng giá (với 4 mã tăng giá trần), 8 mã đứng giá và 2 mã không có giao dịch là FPC của CTCP Full Power và HBD của CTCP Nhà Hoà Bình.

Nhóm cổ phiếu có mức vốn hoá lớn nhất sàn góp mặt đầy đủ trong nhóm giảm giá và cũng là nguyên nhân khiến thị trường giảm mạnh. Ngoại trừ VIC của Vincom và VPL của Du lịch Thương mại Vinpearl chưa đụng sàn còn lại các tên tuổi quen thuộc như STB của Sacombank, PVF của Tài chính Dầu khí, SSI của Chứng khoán Sài Gòn, DPM của Đạm Phú Mỹ, VNM của Vinamilk, HPG của Hoà Phát, FPT của Tập đoàn FPT, PVD của Khoan và Dịch vụ khoan Dầu Khí... đều giảm kịch sàn.

Còn ở các mã tăng giá, 4 mã tăng giá trần là ANV của Nam Việt, DRC của Cao su Đà Nẵng, VNS của Ánh Dương, ASP của Dầu khí Alpha S.G. Tăng giá mạnh nhất phiên là SGH của Khách sạn Sài Gòn (tăng 3.500 đồng), sau đó là TMS của Trasimex Sài Gòn (tăng 1.700 đồng)..

Cổ phiếu mới niêm yết BAS giảm hết 20% biên độ trong hôm nay khi để mất 3.600 đồng được giao dịch ở mức 14.400 đồng/cp và chỉ có 1.500 cổ phiếu được khớp lệnh thành công.

Về khối lượng giao dịch của các cổ phiếu, như thường lệ tốp đầu vẫn là các mã Blue-chips và STB vượt trội hơn cả (3,7 triệu cp), sau đó đã không có mã nào đạt trên 700.000 đơn vị khi đứng thứ 2 là DPM (0,69 triệu cp), FPT (0,54 triệu cp), ANV được giao dịch mạnh (0,49 triệu cp), VIP (0,45 triệu cp)...

Chi tiết giao dịch ngày 11/11:
(Đơn vị giá: 1.000đ; Đơn vị KL: 1 CP)

Mã CK

Giá cao nhất

Giá thấp nhất

Giá đóng cửa

Thay đổi

%Thay đổi

Khối lượng

ABT

27.6

26.7

27.6

-0.1

-0.36

2,720

ACL

31.9

30

30.9

0.1

0.32

19,750

AGF

17.5

17.3

17.3

-0.9

-4.95

57,910

ALP

9.8

9.5

9.5

-0.3

-3.06

27,090

ALT

24.5

23.3

23.3

-1.2

-4.90

2,040

ANV

23.1

22

23.1

1.1

5.00

492,620

ASP

11.1

10.4

11.1

0.5

4.72

38,210

BAS

14.4

14.4

14.4

-3.6

-20.00

1,500

BBC

15.3

15

15.2

-0.5

-3.18

57,220

BBT

5.8

5.8

5.8

-0.3

-4.92

23,690

BHS

13.7

13.7

13.7

-0.4

-2.84

8,250

BMC

74.5

73.5

73.5

-3.5

-4.55

67,480

BMI

19

17.9

19

0.2

1.06

29,950

BMP

36.6

36.1

36.1

-1.8

-4.75

9,890

BPC

11.9

11.8

11.8

-0.2

-1.67

2,100

BT6

57

56.5

56.5

-1.5

-2.59

2,600

BTC

23.5

23.1

23.1

-1.2

-4.94

10,580

CAN

12.4

12.1

12.1

-0.6

-4.72

8,300

CII

28.9

27.6

28.9

-0.1

-0.34

36,060

CLC

17.1

16

17

0.7

4.29

6,130

CNT

12

11.9

11.9

-0.6

-4.80

20,600

COM

34.5

32.8

32.8

-1.7

-4.93

7,170

CYC

12.2

12

12

-0.6

-4.76

50,810

DCC

12.4

11.7

12.4

0.3

2.48

14,060

DCL

35

34.2

35

-0.9

-2.51

49,890

DCT

9.6

9.4

9.4

-0.4

-4.08

51,030

DDM

14.8

14.5

14.5

-0.7

-4.61

125,690

DHA

20.9

20.3

20.8

0.3

1.46

13,240

DHG

115

111

111

-5

-4.31

58,310

DIC

16.3

16

16.3

0

0.00

25,250

DMC

59.5

56.5

59.5

0.5

0.85

33,460

DNP

10

9.6

9.7

-0.3

-3.00

9,110

DPC

12.2

12.2

12.2

-0.6

-4.69

3,010

DPM

43.6

42.9

42.9

-2.2

-4.88

692,120

DPR

36.1

34.3

34.3

-1.8

-4.99

85,770

DQC

17.1

16.4

16.5

-0.7

-4.07

100,920

DRC

23.8

21.6

23.8

1.1

4.85

34,850

DTT

10.9

10.9

10.9

-0.5

-4.39

3,000

DXP

25.1

24.7

24.8

-1.2

-4.62

31,120

DXV

8.3

8.1

8.2

-0.3

-3.53

11,690

FBT

18

17.1

17.1

-0.9

-5.00

7,400

FMC

11.8

11.4

11.8

0

0.00

27,640

FPC




0

FPT

63

61

61

-3

-4.69

536,910

GIL

17.3

17.1

17.1

-0.9

-5.00

43,740

GMC

15.7

15

15

-0.7

-4.46

1,040

GMD

38

36.1

36.2

-1.8

-4.74

101,360

GTA

9.5

9.2

9.2

-0.3

-3.16

2,570

HAP

21.4

20.7

21.4

-0.3

-1.38

68,390

HAS

12

11.6

11.9

-0.3

-2.46

22,710

HAX

15.5

15.4

15.4

-0.8

-4.94

12,700

HBC

20.5

19.1

19.1

-0.8

-4.02

171,780

HBD




0

HDC

24.5

23.8

23.8

-1.2

-4.80

26,320

HLA

20.6

20.6

20.6

-1

-4.63

56,820

HMC

14.7

14.4

14.4

-0.7

-4.64

18,980

HPG

34

33.4

33.4

-1.7

-4.84

397,300

HRC

32.3

30.7

30.7

-1.6

-4.95

94,670

HSI

13.2

12.5

12.6

-0.2

-1.56

7,750

HT1

13.8

13.6

13.6

-0.6

-4.23

17,430

HTV

10.5

10.2

10.2

-0.5

-4.67

21,440

ICF

8.8

8.5

8.5

-0.3

-3.41

10,540

IFS

9.2

8.8

9.2

0.1

1.10

5,040

IMP

72

68

68

-2

-2.86

16,020

ITA

31.7

31.4

31.4

-1.6

-4.85

193,560

KDC

33

32.2

32.2

-1.6

-4.73

63,750

KHA

14.7

14.1

14.3

-0.4

-2.72

56,460

KHP

11.6

11.4

11.4

-0.6

-5.00

55,220

KMR

7.4

7.3

7.3

-0.3

-3.95

56,830

L10

11.7

11.5

11.5

-0.4

-3.36

8,940

LAF

13.1

12.6

12.6

-0.5

-3.82

49,690

LBM

19.6

19.6

19.6

-1

-4.85

35,820

LGC

17.5

17.1

17.2

-0.8

-4.44

11,000

LSS

16.1

15.3

15.3

-0.8

-4.97

30,400

MAFPF1

4.3

4.2

4.3

-0.1

-2.27

11,460

MCP

17.2

16

16.8

0.4

2.44

61,610

MCV

11.5

11.1

11.2

-0.2

-1.75

64,840

MHC

10.5

10.1

10.1

-0.5

-4.72

40,400

MPC

12.4

12

12

-0.1

-0.83

65,670

NAV

13.3

12.6

12.6

-0.3

-2.33

23,680

NHC

42.8

40.9

42

-0.8

-1.87

7,820

NKD

34.6

31.6

31.6

-1.6

-4.82

8,780

NSC

26.8

26.8

26.8

-1.2

-4.29

5,200

NTL

40.5

39.9

39.9

-2.1

-5.00

31,410

OPC

42.5

42.5

42.5

-2.2

-4.92

1,360

PAC

41.8

40.3

41.6

0.1

0.24

22,710

PET

18.6

18.3

18.3

-0.9

-4.69

223,760

PGC

11.4

11.3

11.3

-0.2

-1.74

21,890

PIT

14.6

14.3

14.3

-0.7

-4.67

48,950

PJT

13

12.4

12.6

-0.3

-2.33

4,730

PMS

19

19

19

-0.9

-4.52

10

PNC

10.3

10.2

10.2

-0.2

-1.92

3,000

PPC

25

24.4

24.4

-1.2

-4.69

78,990

PRUBF1

4.3

4.1

4.2

-0.1

-2.33

56,600

PVD

76

74.5

74.5

-3.5

-4.49

165,130

PVF

21.8

21.6

21.6

-1.1

-4.85

323,970

PVT

17.8

17.4

17.4

-0.9

-4.92

294,590

RAL

30.1

29.2

29.7

-0.3

-1.00

15,770

REE

25.7

25.6

25.6

-1.3

-4.83

230,210

RHC

19.1

18.1

19

0

0.00

9,980

RIC

18

16.7

17.5

0.1

0.57

16,970

SAF

18.1

18

18

-0.6

-3.23

7,990

SAM

18

17.1

17.1

-0.9

-5.00

352,810

SAV

12.7

12.3

12.7

0

0.00

22,210

SBT

9.8

9.5

9.6

-0.2

-2.04

208,630

SC5

29.5

28.5

29.5

0.4

1.37

71,950

SCD

17

16.3

16.9

0.6

3.68

5,470

SDN

18.1

17.2

17.2

-0.9

-4.97

1,500

SFC

35.9

34.3

35.9

-0.2

-0.55

950

SFI

48.5

47.5

47.5

-2.5

-5.00

36,200

SFN

11.8

11.1

11.8

0.3

2.61

1,010

SGC

13

12.5

13

0.3

2.36

6,980

SGH

85

81

85

3.5

4.29

210

SGT

26.5

26

26

-1.3

-4.76

25,690

SHC

27

25.5

26.1

-0.7

-2.61

10,320

SJ1

16.5

15.3

15.5

-0.6

-3.73

7,910

SJD

14.4

14.2

14.2

-0.7

-4.70

31,120

SJS

73.5

70

70.5

-3

-4.08

284,920

SMC

22

21.9

21.9

-1.1

-4.78

26,900

SSC

21.9

20.9

20.9

-1.1

-5.00

12,510

SSI

37.5

37.1

37.1

-1.9

-4.87

312,240

ST8

27.4

25.1

25.1

-1.3

-4.92

10,240

STB

22.7

21.9

21.9

-1.1

-4.78

3,706,730

SZL

57

56

56

0

0.00

13,500

TAC

33.7

32.7

32.7

-1.7

-4.94

61,170

TCM

9.6

9.2

9.3

-0.3

-3.12

39,370

TCR

10.3

9.9

9.9

-0.5

-4.81

32,410

TCT

84

82

82.5

-3

-3.51

5,270

TDH

37

35.2

35.5

-1.1

-3.01

178,920

TMC

25

25

25

-0.5

-1.96

600

TMS

38.9

38.8

38.8

1.7

4.58

1,970

TNA

18

16.6

18

0.7

4.05

1,140

TNC

10.7

10.3

10.4

-0.3

-2.80

12,220

TPC

9

8.5

8.5

-0.4

-4.49

121,820

TRC

33

31.6

31.6

-1.4

-4.24

43,170

TRI

11.6

10.9

10.9

-0.5

-4.39

5,670

TS4

9.6

9.2

9.2

-0.4

-4.17

57,860

TSC

48

47.5

47.5

-2.5

-5.00

42,390

TTC

10

10

10

-0.5

-4.76

5,250

TTF

16.9

16.8

16.9

0

0.00

7,820

TTP

19.9

19.7

19.7

-1

-4.83

203,340

TYA

13.5

13

13

-0.5

-3.70

82,330

UIC

11.6

11.4

11.4

-0.5

-4.20

13,960

UNI

14.8

14.6

14.6

-0.7

-4.58

16,030

VFC

9.7

9.2

9.4

0

0.00

21,820

VFMVF1

9.2

9

9

-0.4

-4.26

198,930

VFMVF4

5

4.9

4.9

-0.2

-3.92

63,260

VGP

21.2

20.9

20.9

-1.1

-5.00

8,400

VHC

19

18.1

18.4

-0.6

-3.16

3,500

VHG

9.2

8.9

8.9

-0.2

-2.20

6,010

VIC

78

75.5

77

-1

-1.28

15,880

VID

10

9.6

9.6

-0.5

-4.95

84,230

VIP

12.9

12.3

12.3

-0.6

-4.65

450,560

VIS

24.8

23.5

24.3

0

0.00

22,670

VKP

8.1

7.8

7.9

-0.3

-3.66

34,300

VNA

21.7

21.3

21.3

-1.1

-4.91

36,220

VNE

8

7.7

7.7

-0.3

-3.75

105,140

VNM

86.5

85.5

85.5

-4.5

-5.00

71,930

VNS

19.9

19.6

19.9

0.9

4.74

163,900

VPK

8.7

8.6

8.6

-0.4

-4.44

6,220

VPL

97

95

95

-2

-2.06

78,130

VSC

62

62

62

-3

-4.62

21,600

VSG

13.7

13.7

13.7

-0.3

-2.14

11,000

VSH

29

28.3

28.5

-1.2

-4.04

160,700

VTA

8.5

8

8.5

0.1

1.19

4,830

VTB

15.4

14.7

15.3

-0.1

-0.65

3,560

VTC

12.2

11.4

11.4

-0.6

-5.00

3,760

VTO

14.1

13.5

13.6

-0.5

-3.55

212,110

ATPVietnam