Vàng giảm, USD tăng mạnh trong ngày “nới” tỷ giá

Friday, November 7, 2008 |

Sáng nay, các cửa hàng kinh doanh ngoại tệ trên phố Hà Trung (Hà Nội) niêm yết giá USD ở mức 17.100 VND (mua vào) - 17.150 VND (bán ra), tăng 30 VND so với chiều qua, khi có thông tin Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành quyết định điều chỉnh biên độ tỷ giá USD/VND từ +/-2% lên +/- 3%.

Ngược lại, tỷ giá giao dịch bình quân liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước công bố ngày 7/11 ở mức 16.503 VND/1 USD, giảm 8 VND. Theo đó, tỷ giá giao dịch của ngân hàng thương mại ở mức: 16.880 VND - 16.950 VND, tăng tới 108 VND so với hôm qua.

Với thị trường vàng, ảnh hưởng bởi sự sụt giảm trên thế giới, giá các loại vàng miếng trong nước giảm nhẹ khoảng 5.000 đồng/chỉ so với chiều qua. Vàng SJC đầu giờ sáng có giá: 1,65 triệu đồng/chỉ (mua vào) - 1,665 triệu đồng/chỉ (bán ra); vàng Bảo Tín Minh Châu có giá 1,655 triệu đồng/chỉ - 1,665 triệu đồng/chỉ.

Tại sàn vàng ACB, giá vàng SJC khớp lúc 8h40 ở mức 1,537 triệu đồng/chỉ; cả sàn có 60.150 lượng vàng chuyển nhượng thành công, tương ứng giá trị trên 922 tỷ đồng.

Giá vàng thế giới có thêm một phiên giảm giá mạnh sau khi Ngân hàng Trung ương châu Âu và Ngân hàng Trung ương Anh cắt giảm lãi suất khiến USD mạnh hơn. Kết thúc phiên giao dịch hôm qua, giá vàng giao vào tháng 12 tại New York giảm 10,2 USD/ounce (tương đương 1,4%), xuống mức 732,2 USD/ounce; giá vàng giao ngay giảm 6,4 USD, xuống mức 730,5 USD/ounce.

Việc ngân hàng Trung ương châu Âu cắt giảm lãi suất xuống mức 3,25% và Ngân hàng Trung ương Anh quốc cắt giảm lãi suất xuống mức 3% để ngăn kinh tế suy thoái, đã khiến USD đã tăng giá 1,6% so với 6 loại tiền tệ lớn khác.

Bên cạnh việc suy giảm của giá vàng, trước những dấu hiệu cho thấy nhu cầu năng lượng sẽ đi xuống, giá dầu thô cũng giảm xuống mức thấp nhất trong 19 tháng. Cụ thể, giá dầu thô giao vào tháng 12 tại New York giảm 4,53USD/thùng (tương đương 6,9%), đóng cửa tại mức 60,77 USD/thùng.

Tại thị trường Singapore, xăng A92 có mức giá 55,6 USD/thùng, dầu diezen 0,25S giá 76,02 USD/thùng và dầu ma-zút là 255,79 USD/tấn.

Kết thúc phiên giao dịch ngày hôm nay 7/11, Vn-Index đã chính thức đảo chiều giảm điểm, chầm dứt chuỗi 7 phiên tăng điểm liên tiếp trước đó. Cụ thể, chốt phiên giao dịch cuối tuần, Vn-Index giảm 13,54 điểm (tương đương giảm 3,57%) xuống 365,97 điểm.

Như vậy sau tuần đầu tiên của tháng 11, sàn TPHCM với 4 phiên tăng và 1 phiên giảm, Vn-Index tăng thêm được 18,92 điểm (tức tăng 4,45%) so với mức điểm đóng cửa cuối tuần trước.

Sự tăng điểm của Vn-Index trong những ngày vừa qua cùng với khối lượng giao dịch liên tục ở mức khá cao, đặc biệt như mức giao dịch trong phiên sáng ngày 6/11, cho thấy thanh khoản của thị trường mạnh hơn, thị trường bớt đi sự trầm lắng ở một thời gian dài trước đó. Tính bình quân mỗi phiên trong tuần này có trên 19,3 triệu đơn vị được khớp lệnh (bình quân tuần trước đó là 15,5 triệu đơn vị).

Phiên này, giao dịch có sụt giảm so với phiên giao dịch ngày hôm qua, nhưng vẫn duy trì ở mức cao, toàn thị trường có 17,34 triệu đơn vị giao dịch trị giá 545,317 tỷ đồng.

Trong tổng số 167 mã niêm yết trên Hose, chỉ còn 14 mã tăng giá trong đó có 4 mã tăng trần, số mã giảm giá áp đảo với 143 mã trong đó có tới 105 mã giảm giá sàn, 9 mã đứng giá và 1 mã không có giao dịch là SFC.

Nhóm cổ phiếu lớn có mức vốn hoá lớn nhất sàn, có tới 5/10 mã giảm sàn gồm STB, PVF, HPG, PVD và PPC, các mã tránh được phiên giảm sàn gồm DPM, SSI, VNM và VIC.

FPT của CTCP Phát triển Đầu tư Công nghệ FPT phiên này điều chỉnh giảm mạnh 28.000 đồng xuống còn 61.000 đồng/cổ phiếu do trong ngày giao dịch không hưởng quyền trả cổ tức đợt 2/2008 và phát hành hơn 47 triệu cổ phiếu thưởng.

Nhóm tăng giá phiên này chủ yếu là các cổ phiếu nhỏ như UNI, SJS, PAC, KHP, SFN, RIC…

Về giao dịch, STB vẫn dẫn đầu với 2,44 triệu cổ phiếu, sau đó là SSI với 1,9 triệu, HPG với 1,12 triệu, FPT với 1,09 triệu…

Bên sàn Hà Nội, Hastc-Index đóng cửa phiên giao dịch cuối tuần với mức giảm 5,76 điểm (tương đương 4,72%) xuống 116,36 điểm. Giá trị giao dịch sụt giảm ½ so với phiên hôm qua song vẫn được duy trì ở mức cao với 12,26 triệu cổ phiếu, đạt 329,87 tỷ đồng.

Toàn thị trường có 12 cổ phiếu tăng giá, 7 cổ phiếu đứng giá và 135 mã giảm giá. Trong đó, giảm mạnh nhất là cổ phiếu VSP của CTCP Đầu tư và vận tải dầu khí Vinashin với mức giảm 6,9% xuống 93.100 đồng/CP. Các cổ phiếu giảm mạnh tiếp theo là MIC, DTC, SCJ và ACB. Trong đó cổ phiếu MIC chỉ khớp lệnh đúng 100 cổ phiếu.

Top 5 các cổ phiếu tăng giá có sự xuất hiện trở lại của cổ phiếu CCM sau khi cổ phiếu này đã giảm điểm khá mạnh một thời gian, và hiện tại đang trở thành một trong số các cổ phiếu “hot” trên sàn Hà Nội khi liên tục có lượng dư mua giá trần khối lượng lớn, bên cạnh cổ phiếu DBC của CTCP Dabaco và cổ phiếu DC4 của CTCP Dic số 4. Hai cổ phiếu tăng mạnh tiếp theo là KKC và L62 với mức tăng trên 1.000 đồng/CP.

Về khối lượng khớp lệnh, KLS tiếp tục dẫn đầu toàn thị trường với gần 2,7 triệu cổ phiếu, ACB (1,268 triệu CP), PVI (891.000 CP), PVS (700.000 CP), VCG (494.000 CP). Hầu hết các cổ phiếu thanh khoản nhất thị trường đều giảm điểm đã kéo Hastc-Index giảm sâu trong phiên.

Phiên này, các cổ phiếu Sông Đà đều đồng loạt giảm điểm. Đáng chú ý cổ phiếu SD7 giữa phiên tăng giá trở lại song đã bị bán mạnh, bình quân giảm 700 đồng/CP. Cổ phiếu SD9, SD3, SD4, SD5, SD6 đều bị bán sàn vào cuối phiên.

Làn sóng chốt lãi của nhà đầu tư cùng với diễn biến xấu của chứng khoán thế giới đã cắt đứt chuỗi tăng điểm kéo dài 7 phiên của Vn-Index. Kết thúc phiên cuối tuần, chỉ số này giảm 3,57%, chốt tại mức 365,97 điểm.

Chứng khoán Mỹ và châu Âu đồng loạt bổ nhào hôm qua đã đè nặng lên tâm lý giới đầu tư trong phiên hôm nay 7/11. Ngay từ đợt khớp lệnh mở cửa, cổ phiếu sụt giá hàng loạt, các lệnh bán ATO và sàn áp đảo hoàn toàn lượng mua vào. Vn-Index từ đó rơi 3,52%, tương đương 13,34 điểm, xuống chỉ còn 366,17 điểm. Số chứng khoán được khớp đạt 4,84 triệu, giá trị khoảng 151,27 tỷ đồng.

Trong phiên trước, khối lượng giao dịch tăng vọt báo hiệu nhà đầu tư đã "no nê" sau 6 phiên tăng liên tiếp và bắt đầu cụ thể hóa lợi nhuận. Dù phần lớn cổ phiếu mất giá nhưng đa số mã trong nhóm 20 đại gia hàng đầu trụ vững trước làn sóng bán ra đã giúp thị trường đóng cửa tại mức điểm dương.

Tuy nhiên, giá cổ phiếu phiên này không còn phân hóa lớn như phiên vừa qua mà gần như đều đồng loạt giảm mạnh. Trong đó, lượng blue-chip được các nhà đầu tư đẩy vào thị trường là khá lớn. Ngoại trừ FPT, SJS tăng điểm, các cổ phiếu được tranh mua trong những phiên trước như PPC, SSI, VSH, DPM, hay HPG đã không còn hấp dẫn và sụt mạnh.

Chứng khoán có một phiên điều chỉnh giảm khá sau sau 7 phiên tăng liên tiếp. Ảnh: Hoàng Hà.
Chứng khoán có một phiên điều chỉnh giảm khá sâu sau 7 phiên tăng liên tiếp. Ảnh: Hoàng Hà.

Giữa đợt hai, lực bán có phần chùng xuống giúp hàn thử biểu gượng lại đôi chút, mức điểm trừ chỉ còn trên 2%. Tuy nhiên, lượng cầu quay lại là ít ỏi và không đủ để thị trường đảo chiều. Hy vọng hồi phục của nhà đầu tư bị dập tắt nhanh chóng khi đà đi xuống của cổ phiếu tiếp tục tăng tốc vào những phút cuối đợt hai.

Kết thúc đợt khớp lệnh liên tục, Vn-Index chốt tại 365,49 điểm, xuống 14,02 điểm, ứng với 3,69%. Lượng trao tay trong đợt này đạt 15,5 triệu, giá trị tương ứng 486,18 tỷ đồng.

Vn-Index khép lại tuần giao dịch ở mức 365,97 điểm, xuống 3,57%, ứng với 13,54 điểm. Số cổ phiếu thực hiện qua giao dịch báo giá đạt 17,26 triệu, giá trị 543,8 tỷ. Mua bán thỏa thuận chỉ góp thêm cho tổng giao dịch toàn sàn 77 nghìn cổ phiếu, giá trị 1,52 tỷ đồng.

Kết thúc phiên, toàn sàn có 13 mã tăng, 9 mã đứng giá và 145 mã giảm giá.

Khối ngoại mua vào 2,11 triệu, gấp đôi lượng bán ra, 1,03 triệu cổ phiếu và chứng chỉ quỹ.

Theo ông Vũ Hoài Chang, Giám đốc Khối Phân tích Đầu tư Công ty Chứng khoán SME, phiên giảm này chủ yếu do diễn biến bất lợi của thị trường thế giới đêm qua cũng như xu hướng cụ thể hóa lợi nhuận của giới kinh doanh cổ phiếu sau 7 phiên tăng liên tiếp. Những ngày điều chỉnh giảm như hôm nay là cũng là diễn biến thường gặp trong xu hướng lên của thị trường.

Nhận định về việc điều chỉnh biên độ giao động tỷ giá đôla lên 3%, ông Chang cho hay, về dài hạn điều chỉnh trên sẽ mang lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu trong thu mua ngoại tệ, hạ bớt nhập khẩu, cũng như hạn chế việc rút vốn của nhà đầu tư ngoại.

Ông Chang cũng cho biết thêm, đợt mưa lớn gây ngập lụt tại miền Bắc những ngày qua cũng có tác động không tốt tới chứng khoán do hoạt kinh doanh của doanh nghiệp và sinh hoạt của người dân bị xáo trộn. Ngoài ra, CPI tháng 11 có thể tăng hơn dự kiến do giá thực phẩm leo thang do mưa lũ.

Tại sàn Hà Nội, HaSTC-Index xuống 5,76 điểm, tương đương 4,72%, đóng cửa tại 116,36 điểm. Tổng lượng sang tên toàn sàn đạt 12,35 triệu, giá trị 334,07 tỷ đồng.

Thứ năm 6/11, Dow Jones mất điểm phiên thứ hai liên tiếp, từ đó nâng tổng số điểm trừ hai ngày qua lên mức cao nhất kể từ năm 1987. Thị trường châu Âu chung số phận dù Ngân hàng Trung ương Anh và châu Âu vừa đồng loạt cắt giảm lãi suất.

Chỉ số Dow Jones xuống 4,85%, hiện có giá trị 8.695,79 điểm. Nasdaq đóng cửa tại 1.608,7 điểm, mất 4,34%. Standard & Poor giảm 5,03%, hiện chỉ còn 904,88 điểm. Như vậy sau hai phiên liên tiếp, tổng số điểm trừ của Dow Jones là 929 điểm, ứng với 9,7%, mức sụt giảm tính trên 2 phiên nặng nhất trong 21 năm trở lại đây.

Ông Dave Rovelli, Giám đốc tại Canaccord Adams, cho biết, tin kinh tế xấu, lợi nhuận thấp của các tập đoàn cũng như dự báo u ám về triển vọng kinh tế đã khiến chứng khoán mất điểm mạnh.

Trong hai ngày qua, bất kể việc ông Barack Obama trúng cử, phố Wall vẫn bị nhấn chìm bởi hàng loạt thông tin kinh tế bất lợi. Ảnh: msnbcmedia4.msn.com

Doanh số bán lẻ của hệ thống các cửa hàng trên toàn nước Mỹ sụt giảm có lẽ là thông tin bất lợi nhất. Ngoài ra, tình hình thị trường nhà đất, tín dụng, và lao động cũng khiến nhà đầu tư trở nên bi quan hơn. Ngoại trừ Wal-Mart, hầu hết các nhà bán lẻ lớn tại cường quốc số một thế giới đều sụt giảm doanh số trong tháng 10. Xăng, dầu mất giá đáng kể trong nhiều tuần cũng không đủ để kích thích hoạt động mua sắm của người dân. Theo dự đoán của hãng tin Reuters, doanh số trong tháng 10 năm nay của các tập đoàn bán lẻ có thể tồi nhất trong 8 năm trở lại đây.

Thống kê số người mới thất nghiệp tuần đạt xấp xỉ mức dự đoán, khoảng 481 nghìn người. Trong ngày thứ 6, thông tin về số người thất nghiệp trong tháng 10 sẽ được Chính phủ công bố. Theo dự đoán, tỷ lệ thất nghiệp sẽ tăng từ 6,1% của tháng 9 lên 6,3%.

Từ đầu tuần, các báo cáo kinh tế, bao gồm các chỉ số sản xuất, đơn đặt hàng của các nhà máy, hoạt động của khối dịch vụ, và doanh số bán xe, rơi xuống thấp nhất trong 25 năm qua, đều chỉ ra nhiều dấu hiệu của suy thoái.

Trong nhóm các mã đi xuống, cổ phiếu của các nhà sản xuất ôtô chịu ảnh hưởng khá nặng do nỗi e ngại các hãng trên sẽ phải trông chờ vào sự hỗ trợ của Chính phủ mới tránh khỏi phá sản. Cổ phiếu của General Motor và Ford xuống lần lượt 13,7% và 5,3%.

Ông Mark Travis, Chủ tịch kiêm Giám đốc Điều hành tại Intrepid Capital Funds, cho hay, chứng khoán Mỹ có lẽ vẫn lình xình từ nay đến tận quý II năm tới. Sau quý II/2009, phố Wall có thể tăng mạnh trở lại khi nhà đầu tư bắt đầu mua vào trước triển vọng hồi phục của kinh tế.

Đôla tăng so với bảng và euro sau khi Ngân hàng Trung ương Anh và châu Âu đồng loạt cắt giảm lãi suất để đổi phó với kinh tế suy yếu. Tuy nhiên, đôla lại giảm so với đồng yen.

Cùng ngày, chứng khoán châu Á mất điểm đồng loạt. Diễn biến xấu từ thị trường Mỹ cũng như đồng đôla rẻ đi so với đồng yen, đã ảnh hướng đến cổ phiếu của các nhà xuất khẩu lớn của Nhật như Toyota, Honda, hay Sony, từ đó, đẩy chỉ số Nikkei 225 lùi lại 6,53%. Chỉ số Hang Seng của Hong Kong bị trừ 7,08%. KOSPI của Hàn Quốc và Shanghai Composite của Trung Quốc giảm lần lượt 7,56% và 2,44%.

Ngân hàng Trung ương châu Âu vừa hạ lãi suất 0,5% từ 3,75% xuống còn 3,25%. Ngân hàng Trung ương Anh còn mạnh tay hơn khi đưa lãi suất từ 4,5% xuống chỉ còn 3%, mức cắt giảm mạnh nhất trong 27 năm qua.

Quyết định hạ lãi suất của hai ngân hàng Trung ương được đưa ra với mục đích đối phó với khủng hoảng tài chính và kinh tế suy yếu trong khu vực. Tuy nhiên, chứng khoán châu Âu đón nhận thay đổi trên không mấy tích cực. Chỉ số FTSE 100 giảm 5,7%. Chỉ số DAX của Đức mất 6,84%. Chỉ số CAC 40 của Pháp hạ thấp 6,38%.

Tính tới 10h sáng nay 7/11, chỉ số Nikkei 225 giảm 4,35%, chỉ số Hang Seng bị trừ 1,92%, chỉ số KOSPI giảm 1,65%, còn Shanghai Composite tăng nhẹ 0,15%.

-Sau phiên giao dịch nỗ lực “hết mình” trụ vững trước lượng cung tăng mạnh, phiên giao dịch cuối tuần này, VN-Index đã chính thức dảo chiều giảm điểm, chầm dứt chuỗi 7 phiên tăng điểm liên tiếp trước đó.


Với tâm lý đoán trước sự điều chỉnh giảm của thị trường sau nhiều ngày tăng điểm, sức mua phiên này đã hạn chế khá nhiều trong khi đó bên bán vẫn ồ ạt tung hàng ra với mong muốn tạm thoát khỏi đợt điều chỉnh này.

Lượng cung lớn ngay đầu phiên đã khiến kết thúc đợt 1, chỉ số VN-Index giảm mạnh 13,26 điểm (tương đương giảm 3,49%) xuống còn 366,25 điểm. Khối lượng giao dịch giảm nhiều nhưng vẫn đứng ở mức khá với hơn 4,84 triệu đơn vị, giá trị tương đương 148,1 tỷ đồng.

Bước sang đợt khớp lệnh liên tục sức mua có phần tăng lên đôi chút đã khiến một số mã chủ chốt rời khỏi mức giá sàn, VN-Index theo đó cũng giảm chậm lại, tuy nhiên xu hướng bán ra mạnh đã nhấn chìm mọi nỗ lực trong phiên này.

Và kết thúc đợt 2, chỉ số VN-Index tiếp tục giảm mạnh 14,02 điểm (tương đương giảm 3,69%) xuống còn 365,49 điểm. Giao dịch sau đợt này đã có hơn 15,5 triệu đơn vị được chuyển nhượng với giá trị là 486,182 tỷ đồng.

Khép lại đợt khớp lệnh đình kỳ xác định giá đóng cửa, chốt phiên cuối tuần, chỉ số VN-Index giảm mạnh 13,54 điểm (tương đưong giảm 3,57%) đóng cửa ở mức 365,97 điểm. Tới đây chỉ số này chính thức chấm dứt chuối 7 phiên liên tiếp tăng điểm.

Như vậy sau tuần đầu tiên của tháng 11, thị trường chứng khoán với 4 phiên tăng điểm và 1 phiên giảm điểm, chỉ số VN-Index đã tăng thêm được 18,92 điểm (tức tăng 4,45%) so với mức điểm đóng cửa cuối tuần trước.

Tổng khối lượng giao dịch khớp lệnh của cổ phiếu và chứng chỉ quỹ phiên này giảm khá mạnh so với phiên liên trước nhưng so với mức bình quân qua các phiên thì thanh khoản thị trường vẫn khá cao với hơn 17,2 triệu chứng khoán được khớp lệnh, giá trị đạt 543,8 tỷ đồng. Như vậy là đã giảm trên 40% về cả khối lượng và giá trị so với phiên trước đó.

Tuần này cũng ghi nhận giao dịch tăng lên khá mạnh với hơn 96,5 triệu chứng khoán được khớp lệnh thành công, giá trị tương đương hơn 2.839 tỷ đồng. Tính bình quân mỗi phiên có trên 19,3 triệu đơn vị được khớp lệnh (bình quân tuần trước đó là 15,5 triệu đơn vị).

Cổ phiếu niêm yết phiên này có đến trên 86% số mã giảm giá. Cụ thể, trong tổng số 163 mã cổ phiếu và 4 chứng chỉ quỹ niêm yết, đã có 14 mã tăng giá (trong đó có 4 mã tăng trần), 143 mã giảm giá (trong đó có 105 mã giảm giá sàn), 9 mã đứng giá và 1 mã không có giao dịch là SFC của CTCP Nhiên liệu Sài Gòn.

Nhóm cổ phiếu lớn, ngoài SSI của Chứng khoán Sài Gòn khởi sắc đôi chút trong nửa đầu phiên giao dịch, các mã còn lại đều giao dịch dưới mức tham chiếu trong suốt phiên.

Đã có 5/10 mã nhóm cổ phiếu vốn hoá lớn nhất giảm sàn là STB của Sacombank (-1.200 đồng xuống 23.300 đồng/cp), PVF của Tài Chính Dầu Khí (-1.200 đồng xuống 23.400 đồng/cp), HPG của Hoà Phát (1.800 đồng xuống 35.000 đồng/cp), PVD của PV Drilling (-4.000 đồng xuống 80.000 đồng/cp), PPC của Nhiệt điện Phả Lại (-1.300 đồng xuống 25.600 đồng/cp).. Các cổ phiếu tên tuổi khác tránh được giảm sàn nhưng cũng giảm mạnh như DPM của Đạm Phú Mỹ, VNM của Vinamilk, VIC của Vincom...

FPT của CTCP Phát triển Đầu tư Công nghệ FPT phiên này điều chỉnh giảm mạnh 28.000 đồng xuống còn 61.000 đồng/cổ phiếu do trong ngày giao dịch không hưởng quyền trả cổ tức đợt 2/2008phát hành hơn 47 triệu cổ phiếu thưởng. Nếu không xét đến 2 yếu tố này, cổ phiếu FPT phiên này vẫn tăng trần.

Số ít mã tăng giá khác còn có SJS của Sudico, KHP của Điện lực Khánh Hoà, DPC của Nhựa Đà Nẵng, HRC của Cao su Hoà Bình, COM của COMECO và một số mã cổ phiếu nhỏ khác.

Về khối lượng giao dịch, STB giảm mạnh nhưng vẫn dẫn đầu (2,44 triệu cp), sau đó là SSI (1,9 triệu cp), HPG (1,12 triệu cp), FPT (1,09 triệu cp), SJS (0,72 triệu cp), SAM (0,61 triệu cp), ITA (0,5 triệu cp)...

Chi tiết giao dịch ngày 7/11:
(Đơn vị giá: 1.000đ; Đơn vị KL: 1 CP)

Mã CK

Giá cao nhất

Giá thấp nhất

Giá đóng cửa

Thay đổi

%Thay đổi

Khối lượng

ABT

28

26.6

26.6

-1.4

-5.00

30,650

ACL

32.5

32.1

32.1

-1.6

-4.75

17,550

AGF

18.3

17.7

18.1

-0.5

-2.69

21,930

ALP

10.4

9.8

9.8

-0.5

-4.85

43,050

ALT

25.9

23.8

23.9

-1.1

-4.40

1,410

ANV

21

20.8

21

-0.8

-3.67

108,160

ASP

10.9

10.8

10.8

-0.5

-4.42

39,910

BBC

16.5

15.7

15.7

-0.8

-4.85

37,900

BBT

5.9

5.9

5.9

-0.3

-4.84

8,550

BHS

14.6

14.6

14.6

-0.7

-4.58

3,830

BMC

81

81

81

-4.0

-4.71

5,620

BMI

20

19.4

19.4

-1.0

-4.90

13,560

BMP

36.8

36.6

36.6

-1.9

-4.94

21,510

BPC

12

11.8

11.8

-0.6

-4.84

2,800

BT6

58

55.5

58

1.5

2.65

10,410

BTC

25.5

25.5

25.5

-1.3

-4.85

20

CAN

12.8

12.3

12.8

-0.1

-0.78

19,820

CII

31

28.6

28.7

-1.4

-4.65

58,410

CLC

17.1

16.4

17.1

0.0

0.00

3,500

CNT

12.6

12.3

12.3

-0.6

-4.65

23,210

COM

34.5

32.7

34.5

0.4

1.17

210

CYC

13.3

13.2

13.2

-0.6

-4.35

36,630

DCC

11.7

11.6

11.6

-0.6

-4.92

12,330

DCL

36.6

35.1

35.1

-1.8

-4.88

19,470

DCT

10

9.6

9.7

-0.3

-3.00

33,360

DDM

15.8

15.2

15.2

-0.7

-4.40

104,300

DHA

21.2

20.9

20.9

-1.1

-5.00

42,960

DHG

115

114

114

-6.0

-5.00

42,000

DIC

17.9

16.4

16.4

-0.8

-4.65

32,220

DMC

61

58

58

-3.0

-4.92

48,850

DNP

10.5

10.5

10.5

-0.5

-4.55

2,220

DPC

12.4

11.4

12.4

0.5

4.20

210

DPM

47

45.2

45.2

-2.1

-4.44

407,480

DPR

39.2

38

38

-2.0

-5.00

58,070

DQC

18.1

18.1

18.1

-0.9

-4.74

29,730

DRC

23.3

23.3

23.3

-1.2

-4.90

8,440

DTT

11.4

11.4

11.4

-0.6

-5.00

1,860

DXP

26

25.9

25.9

-1.3

-4.78

29,580

DXV

8.3

8.3

8.3

-0.4

-4.60

14,560

FBT

17.9

17.1

17.9

-0.1

-0.56

45,310

FMC

11.5

11.2

11.4

-0.3

-2.56

18,630

FPC

20.3

20.3

20.3

0.7

3.57

10

FPT

61

59

61

-28.0

-31.46

1,095,780

GIL

17.7

17.2

17.2

-0.1

-0.58

75,230

GMC

15.7

15

15

-0.7

-4.46

8,850

GMD

38

36.6

37.5

-0.5

-1.32

56,480

GTA

10.4

9.9

9.9

-0.5

-4.81

4,180

HAP

22

21.1

21.5

-0.7

-3.15

86,600

HAS

12.2

12.2

12.2

-0.6

-4.69

4,820

HAX

17

17

17

-0.8

-4.49

4,890

HBC

19.5

18.5

19

0.4

2.15

96,740

HBD

11.5

10.6

11.5

0.4

3.60

4,240

HDC

25

23.9

25

-0.1

-0.40

29,180

HLA

22.7

22.7

22.7

-1.1

-4.62

20

HMC

15.3

15.1

15.1

-0.7

-4.43

41,620

HPG

36.7

35

35

-1.8

-4.89

1,117,660

HRC

31.1

29.7

30.8

1.1

3.70

113,580

HSI

13.4

13.3

13.3

-0.6

-4.32

12,540

HT1

14.5

14.5

14.5

-0.7

-4.61

16,000

HTV

10.5

10.4

10.4

-0.5

-4.59

38,360

ICF

9

9

9

-0.4

-4.26

5,370

IFS

9.5

9.5

9.5

-0.5

-5.00

5,470

IMP

74

73.5

74

-3.0

-3.90

5,040

ITA

35

34.2

34.2

-1.8

-5.00

495,770

KDC

35

33.8

33.8

-1.7

-4.79

49,300

KHA

14.8

13.9

14.2

-0.3

-2.07

124,370

KHP

12.6

11.4

12.6

0.6

5.00

117,870

KMR

7.7

7.5

7.5

-0.3

-3.85

91,410

L10

12.4

12.4

12.4

-0.6

-4.62

3,340

LAF

13.5

13

13

-0.6

-4.41

32,230

LBM

21.6

21.6

21.6

-1.1

-4.85

6,300

LGC

19

17.6

17.6

-0.9

-4.86

13,320

LSS

16.9

16.1

16.8

-0.1

-0.59

80,840

MAFPF1

4.3

4.1

4.3

0.0

0.00

15,920

MCP

16.4

15.8

16.4

-0.2

-1.20

52,800

MCV

12

11.2

11.3

-0.3

-2.59

79,890

MHC

10.5

10.1

10.1

-0.5

-4.72

115,670

MPC

12.8

12.2

12.3

-0.5

-3.91

81,220

NAV

13

13

13

-0.6

-4.41

39,500

NHC

43

42.8

42.8

-2.2

-4.89

11,110

NKD

36.6

34.8

34.8

-1.8

-4.92

1,870

NSC

27.7

27.6

27.6

-1.4

-4.83

20,910

NTL

43

40

40

-2.0

-4.76

107,100

OPC

47

47

47

-2.4

-4.86

160

PAC

41.5

40.5

41.5

0.1

0.24

61,600

PET

21

20.1

20.1

-1.0

-4.74

72,920

PGC

12.3

12

12

-0.6

-4.76

19,800

PIT

15.7

15.7

15.7

-0.8

-4.85

20,820

PJT

12.8

12.6

12.6

-0.6

-4.55

11,730

PMS

19.9

19.9

19.9

0.0

0.00

200

PNC

11

10.9

10.9

-0.5

-4.39

4,500

PPC

26.8

25.6

25.6

-1.3

-4.83

400,240

PRUBF1

4.3

4.2

4.2

-0.2

-4.55

131,820

PVD

82

80

80

-4.0

-4.76

167,180

PVF

24.6

23.4

23.4

-1.2

-4.88

483,660

PVT

19.5

19

19

-1.0

-5.00

148,460

RAL

29.7

28.3

29.7

0.0

0.00

4,840

REE

27.6

27

27

-1.4

-4.93

422,140

RHC

19

18.1

18.2

-0.7

-3.70

7,760

RIC

16.9

15.3

16.6

0.5

3.11

91,050

SAF

19

18.6

18.6

-0.9

-4.62

6,010

SAM

19.2

18.6

18.6

-0.9

-4.62

605,240

SAV

12.6

12.3

12.3

-0.1

-0.81

18,250

SBT

9.8

9.4

9.6

-0.2

-2.04

224,940

SC5

29

27.7

27.8

-1.2

-4.14

47,840

SCD

17.1

17.1

17.1

-0.8

-4.47

2,120

SDN

19.5

18.1

19

0.0

0.00

1,130

SFC






0

SFI

51

49

49

-2.5

-4.85

64,940

SFN

11.7

11.7

11.7

0.4

3.54

10

SGC

13

12.7

12.7

-0.4

-3.05

6,480

SGH

86

85

85

-4.0

-4.49

150

SGT

28.3

28.3

28.3

-1.4

-4.71

15,730

SHC

28

26.7

28

0.0

0.00

7,040

SJ1

16.7

16.7

16.7

-0.8

-4.57

10

SJD

14.7

14.7

14.7

-0.7

-4.55

16,750

SJS

70

67

70

3.0

4.48

720,610

SMC

22.5

21.4

22

-0.5

-2.22

28,800

SSC

22.1

22.1

22.1

-1.1

-4.74

12,980

SSI

40

37

38

-0.4

-1.04

1,901,100

ST8

27.4

26.1

27.4

0.0

0.00

2,830

STB

24

23.3

23.3

-1.2

-4.90

2,443,830

SZL

58

55.5

55.5

-2.5

-4.31

10,980

TAC

34

31.5

32.8

0.0

0.00

292,300

TCM

9.5

9.4

9.4

-0.4

-4.08

100,440

TCR

10.5

10

10.4

-0.1

-0.95

27,890

TCT

88.5

88.5

88.5

-4.5

-4.84

1,880

TDH

36.7

34.9

34.9

-1.8

-4.90

323,290

TMC

25.5

24.8

24.8

-1.2

-4.62

10,170

TMS

39

39

39

0.0

0.00

320

TNA

19

18.1

18.1

-0.9

-4.74

1,680

TNC

11.2

11.1

11.1

-0.5

-4.31

30,710

TPC

9.2

9.2

9.2

-0.4

-4.17

42,100

TRC

33.8

32.2

33

-0.8

-2.37

66,960

TRI

11.4

11.4

11.4

-0.5

-4.20

6,500

TS4

10

10

10

-0.5

-4.76

3,700

TSC

50.5

50.5

50.5

-2.5

-4.72

28,920

TTC

10.1

10.1

10.1

-0.5

-4.72

13,930

TTF

17.4

17.4

17.4

-0.9

-4.92

1,680

TTP

22

21

21

-1.1

-4.98

113,680

TYA

14.7

14

14

-0.7

-4.76

65,730

UIC

12.8

11.7

11.7

-0.6

-4.88

15,800

UNI

16

14.7

16

0.6

3.90

23,650

VFC

9.8

9.7

9.7

-0.5

-4.90

110,340

VFMVF1

9.6

9.2

9.2

-0.4

-4.17

259,420

VFMVF4

5.1

5

5

-0.2

-3.85

52,580

VGP

21.7

21.7

21.7

-1.1

-4.82

1,170

VHC

19

18.3

18.3

-0.8

-4.19

29,370

VHG

9.1

8.7

8.9

-0.2

-2.20

24,910

VIC

78

75

76.5

-2.0

-2.55

17,530

VID

10

9.9

9.9

-0.5

-4.81

35,210

VIP

13.4

13.2

13.2

-0.6

-4.35

334,230

VIS

25.2

24

24

-1.2

-4.76

53,170

VKP

8.5

8.5

8.5

-0.4

-4.49

11,630

VNA

22.8

22.1

22.1

-1.1

-4.74

103,880

VNE

8

7.8

7.8

-0.4

-4.88

91,330

VNM

92

87.5

88

-4.0

-4.35

294,620

VNS

18.7

18.4

18.6

-0.6

-3.12

28,340

VPK

9.3

9

9.2

-0.2

-2.13

2,030

VPL

97

94

95.5

-1.5

-1.55

15,650

VSC

65

63

64.5

-1.5

-2.27

9,800

VSG

14

14

14

-0.7

-4.76

19,130

VSH

31.5

30.7

30.7

-1.6

-4.95

200,680

VTA

8.1

8

8

-0.4

-4.76

10,580

VTB

15.1

15.1

15.1

-0.7

-4.43

30

VTC

12.1

11.5

11.5

-0.6

-4.96

1,560

VTO

14.5

14.1

14.1

-0.7

-4.73

374,720